Chương 1: Khám phá Chủ đề trọng tâm qua 5 Lăng kính

Từ GCED

coChương đầu tiên của GCED có tên "Khám phá Chủ đề trọng tâm qua 5 Lăng kính", kéo dài trong 21 tiết (bao gồm 1 tiết giới thiệu Chương trình). Chương này đóng vai trò “xây dựng nền tảng” cho HS không chỉ trong giai đoạn HỌC đầu tiên mà còn cho suốt 1 năm học môn GCED.

Đúng như tên gọi, chương này có 2 nội dung chính sau:

  1. 5 Lăng kính: hiểu một cách đơn giản thì Lăng kính chính là những khía cạnh, góc nhìn, hoặc cách tiếp cận khác nhau khác nhau về 1 vấn đề. Nói cách khác, "nhìn nhận" một vấn đề thông qua 1 Lăng kính đồng nghĩa với việc HS sẽ chỉ tập trung vào 1 khía cạnh cụ thể của vấn đề này.
  2. Chủ đề trọng tâm: là các vấn đề toàn cầu mà cả thế giới đang quan tâm. Những vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp tới sự sinh tồn & phát triển của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trên thế giới theo những cách khác nhau. GCED được triển khai ở 12 khối lớp, và mỗi khối lớp sẽ được tiếp cận với một Chủ đề trọng tâm/vấn đề toàn cầu khác nhau.

Ở mỗi khối lớp, học sinh sẽ tiếp cận các Chủ đề trọng tâm (vấn đề toàn cầu) một cách toàn diện dưới 5 Lăng kính khác nhau. Cách tiếp cận như vậy là biểu hiện của phương pháp Học qua Hiện tượng, cho phép người học có được góc nhìn đa chiều, khách quan về vấn đề toàn cầu, từ đó hướng tới những cách giải quyết bền vững cho vấn đề mình đang tìm hiểu. Đồng thời, HS sẽ dần hình thành được kiến thức, hiểu biết một cách toàn diện, sâu rộng hơn về vấn đề.

Lưu ý:
  • Ở Chương 1, mỗi Bài đều có 1 câu hỏi, và thầy cô nên hướng HS tới việc trả lời được câu hỏi này ở cuối Bài. Thầy cô có thể xem ở PM Mapping, câu hỏi này nằm ở tên bài học (xem ví dụ ở dưới)
Ví dụ về 1 câu hỏi Bài ở trên PM Mapping
  • Những nội dung trong trang này có thể mang tính hàn lâm, học thuật, và đây là việc hoàn toàn bình thường. Đây là những nội dung được viết riêng cho thầy cô (những người giảng dạy, triển khai trực tiếp), không phải cho HS. Do đó, nên cân nhắc điều chỉnh từ ngữ sao cho phù hợp với HS trước khi đưa ra bất cứ thông tin nào.

5 Lăng kính

5 Lăng kính là gì, yêu cầu như thế nào?

Như đã nói ở trên, 5 Lăng kính chính là 5 khía cạnh, góc nhìn, hoặc cách tiếp cận khác nhau khác nhau về 1 vấn đề. Nói cách khác, "nhìn nhận" một vấn đề thông qua 1 Lăng kính đồng nghĩa với việc HS sẽ chỉ tập trung vào 1 khía cạnh cụ thể của vấn đề này. Trong GCED, 5 Lăng kính này là:

  • Lăng kính 1: Tư duy Toàn cầu (Global Mindedness).
  • Lăng kính 2: Tư duy Hệ thống (Systems Thinking)
  • Lăng kính 3: Tư duy Phản biện (Information Criticality)
  • Lăng kính 4: Đổi mới Sáng tạo (Innovation)
  • Lăng kính 5: Cộng tác (Collaboration)


Dưới đây là mô tả chung về những yêu cầu dành cho HS trong mỗi Lăng kính:

Tư duy Toàn cầu

  • Hiểu rằng vấn đề toàn cầu (1) là những vấn đề lớn, xảy ra ở mọi nơi trên thế giới, (2) ảnh hưởng tới nhu cầu, quyền, lợi ích chung của con người, và (3) trầm trọng hóa sự bất bình đẳng vốn đã diễn ra trong xã hội
  • Hiểu rằng con người trên thế giới có đặc điểm khác nhau, nên sẽ chịu ảnh hưởng khác nhau từ vấn đề.
  • Hiểu rằng vấn đề toàn cầu có thể ảnh hưởng tới mỗi cá nhân, gián tiếp hoặc trực tiếp.

Tư duy Hệ thống

  • Hiểu rằng vấn đề toàn cầu thường rất phức tạp, có thể xảy ra/ được duy trì bởi nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố tương tác, thúc đẩy lẫn nhau, tạo ra những vòng lặp khiến việc giải quyết không hề đơn giản.
  • Xác định các nguyên nhân của vấn đề toàn cầu và cách những nguyên nhân này tương tác với nhau để duy trì vấn đề (tạo ra vòng lặp).
  • Hiểu rằng giải pháp phải mang tính hệ thống, nghĩa là cân nhắc tới nhiều nguyên nhân, vòng lặp khác nhau đang duy trì vấn đề.
  • Phân tích các giải pháp có sẵn: Giải pháp có mang tính hệ thống hay không? Hạn chế của nó là gì?

Tư duy Phản biện

  • Tiếp xúc với các quan điểm trái chiều về vấn đề toàn cầu.
  • Nhận biết, xác định các yếu tố có thể ảnh hưởng tới tính khách quan của quan điểm/thông tin (động cơ, giả định, định kiến, v.v).

Đổi mới Sáng tạo

  • Sử dụng một quy trình đơn giản để lên ý tưởng giải quyết vấn đề toàn cầu.
  • Xác định/dự đoán các rủi ro/rào cản có thể gặp khi triển khai giải pháp cho vấn đề.  

Cộng tác

  • Hiểu rằng những nỗ lực nhỏ lẻ của từng cá nhân không thể giải quyết triệt để các vấn đề toàn cầu, mà cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức/bộ máy, đến từ nhiều lĩnh vực/xuất xứ khác nhau.
  • Xác định các tổ chức/mạng lưới tổ chức đang hoạt động để giải quyết vấn đề toàn cầu để học hỏi/tham gia/tìm kiếm hỗ trợ.
  • Thảo luận về một số cách tổ chức/tập hợp đám đông, cộng đồng để giải quyết vấn đề toàn cầu.
Lưu ý: Việc hình thành các tư duy tương ứng với các lăng kính hay đạt được yêu cầu cần đạt dưới đây nên được coi là mục đích của quá trình học tập GCED nghiêm túc trong 12 năm học, không phải là của một vài bài học trong một khóa. Tức là, không phải cứ được học về cách phân biệt nguồn đáng tin và nguồn không đáng tin trong 1, 2 tiết nghĩa là học sinh đã có được tư duy phản biện, hay được giới thiệu quy trình thiết kế thì học sinh sẽ phải nghĩ ra được những ý tưởng chưa ai nghĩ tới bao giờ. Đây là điều không tưởng.

Trong thời lượng có hạn của GCED, chương trình chỉ có thể cho phép học sinh tiếp xúc với một vài khía cạnh hay biểu hiện của mỗi loại tư duy. Từ những trải nghiệm này, học sinh bắt đầu hình thành và hoàn thiện cách hiểu và cách áp dụng những lối tư duy đó.  

Vì sao cần 5 Lăng kính này? Vì sao phải nghiên cứu, khám phá vấn đề qua nhiều khía cạnh, lăng kính khác nhau?

Không phải lúc nào giải pháp cho vấn đề cũng đơn giản, và hiển nhiên. Và chắc chắn, không nên bàn tới giải pháp nếu như chưa hiểu rõ về vấn đề

Đẩu tiên, phải khẳng định rằng: 5 Lăng kính (mà GCED muốn truyền tải cho HS) là một loại công cụ để giải quyết vấn đề.

Không chỉ đóng vai trò là các khía cạnh khác nhau để học sinh có cái nhìn đa chiều về Chủ đề trọng tâm, 5 Lăng kính này còn là tấm lá chắn, là hệ miễn dịch giúp học sinh (và cả thầy cô) bảo vệ bản thân khỏi những sai lầm thường gặp khi tiếp cận và giải quyết vấn đề toàn cầu, hay rộng hơn là các vấn đề trong cuộc sống. Việc giải quyết vấn đề (dù là vấn đề lớn hay nhỏ, vấn đề địa phương hay vấn đề toàn cầu) cũng nên trải qua một số bước nhất định, và cân nhắc một số yếu tố nhất định. Đó là lý do vì sao phải "khám phả Chủ đề trọng tâm qua 5 Lăng kính", chứ không phải chỉ đơn thuần là "Khám phá Chủ đề trọng tâm".

Thử nhìn vào một ví dụ tương đối quen thuộc khi vấn đề không được xem xét một cách nghiêm túc như sau: Cứ gắn đến lúc triển khai “dự án cộng đồng”, thầy cô và học sinh thường dễ nghĩ tới những giải pháp quen thuộc nhất, dễ dàng nhất mà ai cũng có thể đề xuất: Cần làm gì đó để bảo vệ môi trường? Đi nhặt rác, phân loại rác. Cần làm gì đó để giúp đỡ người nghèo? Quyên góp tiền, quần áo.

Để ý rằng những giải pháp này bỏ qua hoàn toàn các bước tìm hiểu, cân nhắc về hiện trạng, nguyên nhân hay kinh nghiệm rút ra từ giải pháp đã được thực hiện. Những giải pháp này không sai, nhưng chắc chắn không tối ưu, và cũng không giải quyết được triệt để vấn đề cho bất kỳ ai. Chúng ta không muốn hình thành cho học sinh lối suy nghĩ “mình có ý tốt, mình làm gì đó là được rồi.” Nếu đã quyết định thiết kế và triển khai một dự án, học sinh và thầy cô cần nghiêm túc về việc tạo ra những giá trị thực sự, chứ không phải chỉ đang chạy KPI hay làm cho có.

5 Lăng kính này hướng tới việc giải quyết 5 vấn đề gì?

Những trở ngại, sai lầm thường gặp khi tìm giải pháp cho vấn đề là gì? Các lăng kính có thể giúp như thế nào?

Để hiểu rõ hơn về vì sao 5 Lăng kính này lại được lựa chọn để trở thành phương tiện giúp học sinh tìm hiểu vấn đề và đưa ra giải pháp hiệu quả, hãy cùng phân tích một số trở ngại và sai lầm mà chúng ta hay mắc phải dưới đây khi giải quyết vấn đề. Lưu ý rằng ứng dụng của 5 lối tư duy (5 Lăng kính) này không chỉ gói gọn trong phạm vi môn GCED hay các vấn đề toàn cầu; thực tế, chúng hoàn toàn có thể được áp dụng cho các vấn đề trong cuộc sống.

Vấn đề 1: Không hiểu rõ về tầm ảnh hưởng và mức độ nghiêm trọng của vấn đề

Khi một vấn đề được đưa ra, chúng ta có xu hướng mặc định rằng vấn đề tồn tại, vì nếu ai đó đã nói rằng đây là vấn đề, chắc hẳn họ đã có cơ sở tốt để khẳng định đây là vấn đề. Trên thực tế, xác định sai vấn đề hoặc đánh giá chưa chính xác mức độ quan trọng của vấn đề là một điều thường xuyên xảy ra. Vậy nên ta cần phải xây dựng được một phản xạ để tự đánh giá vấn đề và hình thành ý kiến riêng của mình về việc đây có thực sự là một vấn đề cần giải quyết hay không.

Nhất là đối với những vấn đề mà truyền thông đề cập đến rất nhiều (như đói nghèo và biến đổi khí hậu chẳng hạn), ta dễ trở nên “chai lì” với chúng và cảm giác không cần phải tìm hiểu kỹ lưỡng nữa, nghĩ ra giải pháp mới là điều quan trọng. Tuy nhiên, việc nghiêm túc nghiên cứu tình trạng của vấn đề ở nhiều địa điểm khác, với những cộng đồng khác là cơ hội để xác nhận cho chính bản thân mình liệu đây có thực sự là một vấn đề đang ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của nhiều người và thậm chí của chính bản thân mình hay không. Với học sinh Vinschool, điều này càng quan trọng vì phần lớn các em còn nhỏ tuổi, chưa được tiếp xúc trực tiếp với các vấn đề mang tính vĩ mô, đồng thời đang được sống một cuộc sống khá bình yên, không bị ảnh hưởng hoặc không nhận thức được việc mình đang bị ảnh hưởng bởi các vấn đề ấy. Việc cho các em thấy về hiện thực-tương lai không mấy tươi đẹp khi các vấn đề này chưa được giải quyết sẽ giúp các em quan tâm về vấn đề và nghiêm túc hơn trong việc đi tìm giải pháp.  

Lăng kính “Tư duy Toàn cầu” sẽ mở ra cái nhìn toàn cảnh về hiện trạng vấn đề, cho phép học sinh so sánh thực trạng của vấn đề ở nhiều nơi khác nhau, từ đó hiểu được tầm ảnh hưởng và mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Cũng vì đây là những vấn đề lớn, có khả năng tác động tiêu cực đến tất cả mọi người, học sinh hiểu rằng mình không phải là ngoại lệ - vấn đề này sớm hay muộn cũng sẽ ảnh hưởng đến bản thân em và những người thân/ xung quanh em, vì thế em cần dành sự quan tâm xứng đáng cho vấn đề ấy.

Vấn đề 2: Không nhận thức được hoặc không công nhận tính phức tạp của vấn đề

Nghĩ về trường hợp sau: con làm vỡ một bình cắm hoa của mẹ, và mẹ mắng con nhiều hơn rất nhiều so với mọi lần con làm đổ vỡ vật gì đó khác, dù con đã từng làm vỡ vật có giá trị hơn rất nhiều. Thế thì lý do ở đây là gì? Chiếc bình đó có ý nghĩa đặc biệt gì với mẹ? Mẹ đang căng thẳng ở công ty nên tâm trạng không tốt, dễ nổi nóng và không kiểm soát được bản thân? Dạo này con thường xuyên không nghe lời mẹ, và chiếc bình là giọt nước tràn ly? Hay là một sự kết hợp của nhiều lý do trên? Một vấn đề tưởng chừng nhỏ nhặt cũng có thể có nhiều lớp lang, do đó việc hiểu rằng một vấn đề có thể có nhiều nguyên nhân và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau chính là chìa khóa để giải quyết vấn đề ấy một cách hiệu quả.

Đối với một vấn đề phức tạp và/hoặc đã tồn tại lâu dài (như vấn đề toàn cầu chẳng hạn), thông thường sẽ có rất nhiều nguyên nhân đang góp phần duy trì vấn đề này. Một giải pháp tốt cho những vấn đề như vậy đòi hỏi phải cân nhắc kỹ lưỡng không những một loạt những nguyên nhân nổi bật mà còn cả sự tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau của những nguyên nhân này. Thử phân tích nhanh vấn đề nghèo đói: một số nguyên nhân thường thấy có thể là thiếu cơ hội việc làm, thiếu cơ hội học tập, hay điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Để ý rằng, thiếu cơ hội việc làm và thiếu cơ hội học tập có mối liên kết chặt chẽ với nhau: nghèo đói làm giảm khả năng tiếp cận với giáo dục chất lượng, hay thậm chí là không thể học tập liên tục, dẫn đến ít cơ hội việc làm tốt hơn, khiến người nghèo không thoát được khỏi mức thu nhập thấp để cải thiện cuộc sống. Một yếu tố khác ít được nhắc tới hơn khi nói về đói nghèo là sức khỏe: người nghèo thường có điều kiện sống thấp, không được chăm sóc sức khỏe một cách hiệu quả, dẫn đến việc dễ đau ốm, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng lao động và tạo ra thu nhập, không những vậy còn tốn nhiều khoản chi phí cho việc chữa bệnh, khiến nghèo lại càng nghèo. Và vòng lặp cứ thế tiếp diễn cho đến khi có một giải pháp có thể phá vỡ, hay làm gián đoạn vòng lặp ấy.

Lăng kính “Tư duy Hệ thống” tập trung vào mổ xẻ vấn đề một cách kỹ lưỡng trước khi đưa ra giải pháp: bằng cách cho học sinh phân tích nguyên nhân cũng như sự tương tác, duy trì lẫn nhau của các nguyên nhân, lăng kính giúp định hướng học sinh tới một giải pháp mang tính hệ thống, có thể giải quyết hay làm giảm nhẹ vấn đề một cách hiệu quả thay vì chấp nhận bất kỳ giải pháp nào.

Vấn đề 3: Tiếp nhận thông tin (về vấn đề) mà không có chọn lọc

Để giải quyết vấn đề hiệu quả, chúng ta cần có đủ những thông tin, dữ kiện đáng tin cậy và khách quan. Mặc dù vậy, ngày nay việc phát tán quá dễ dàng khiến cho thông tin tràn ngập mọi nơi; ai cũng có thể dễ dàng tiếp cận với đủ mọi loại thông tin chỉ sau một vài giây tìm kiếm. Đây là con dao hai lưỡi - con người có thể nâng cao hiểu biết của mình nhanh chóng, dễ dàng hơn, nhưng đồng thời nếu không cẩn thận sẽ dễ rơi vào mê cung thông tin và đặt niềm tin sai chỗ vào những “sự thật” sai lệch, chưa được kiểm chứng, hoặc thậm chí dùng để điều hướng dư luận. Đánh giá được độ chính xác của thông tin, biết được ai là người tạo ra/lan truyền thông tin đó cũng như mục đích/động cơ của họ sẽ giúp chúng ta đưa ra được những quyết định, quan điểm đúng đắn nhất.

Một ví dụ điển hình là câu chuyện ngụy tạo “bác sĩ Khoa rút máy thở của mẹ mắc COVID cứu sản phụ sinh đôi” vào năm 2021. Đánh trúng vào tâm lý hoang mang, đau thương của người dân giữa thời điểm dịch bệnh đang bùng phát mạnh mẽ, câu chuyện được chia sẻ với tốc độ chóng mặt và gây chấn động mạng xã hội. Rất nhiều người đã để cảm xúc lấn át, không xác thực chi tiết của câu chuyện kỹ càng mà ngay lập tức tin tưởng, lan truyền, thậm chí gửi tiền ủng hộ cho nhóm thiện nguyện “Nhóm 82” - được cho là tổ chức “bác sĩ Khoa” tham gia để giúp đỡ bệnh nhân COVID-19. Tất cả đều ngã ngửa khi câu chuyện của bác sĩ Khoa hoàn toàn chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, được nhào nặn ra với mục đích kêu gọi từ thiện. Tạm thời chưa nói đến việc nhóm đó có thực sự sử dụng tiền quyên góp vào việc hỗ trợ những người cần được giúp đỡ hay không, nhưng sự thật là rất nhiều người đã mù quáng tin vào những thông tin trôi nổi, không được kiểm chứng để hành động.

Lăng kính “Tư duy phản biện” nhắc nhở về sự tồn tại của thông tin, quan điểm sai lệch, thiếu khách quan, đồng thời xây dựng cho học sinh một “hệ miễn dịch” trước lượng thông tin khổng lồ về vấn đề mà học sinh có thể tiếp cận được, tạo cơ hội tốt nhất để học sinh có thể đưa ra được quyết định hợp lý dựa trên nền tảng đầy đủ thông tin đáng tin cậy.  

Vấn đề 4a: Hiểu nhầm rằng giải pháp cho vấn đề là phải sáng tạo, và phải là một giải pháp chưa ai nghĩ tới, chưa ai từng làm

Sáng tạo không nhất thiết có nghĩa là tạo ra các khái niệm và ý tưởng nguyên bản từ con số không; thực chất loại sáng tạo này hiếm khi xảy ra. Trên thực tế, sáng tạo có thể đơn giản là cải tiến, thay đổi một (vài) ý tưởng có sẵn để tạo ra một ý tưởng hay sản phẩm khác. Thầy cô đã bao giờ nghe về sản phẩm tên là Slanket (hiểu nôm na là Chăn có Ống tay) chưa? Nếu chưa, thì nó trông như thế này:

Slanket (Chăn có Ống tay)

Chăn và ống tay thì chẳng còn xa lạ với bất kỳ ai, nhưng ai đó đã nhận ra nhu cầu (hay vấn đề cần giải quyết) của người tiêu dùng về việc vừa muốn đắp chăn cho ấm, lại vừa muốn cánh tay có thể thoải mái di chuyển nhằm thực hiện các việc khác, như là làm việc trên laptop, uống nước, hoặc ăn vặt. Nhu cầu, hay vấn đề này đã dẫn đến sự kết hợp giữa chăn và ống tay, mà cha đẻ của sản phẩm này không hề phải phát minh ra tấm chăn hay ống tay trước để ghép lại thành sản phẩm của mình.

Ở môn GCED nói riêng, học sinh phải đưa ra những câu hỏi, giải pháp của riêng mình, và chúng ta nên “thả lỏng” mong đợi một chút: các con không cần phải nghĩ ra cái gì đó hoàn toàn mới hay thực sự khác biệt. Ngược lại, học sinh nên được khuyến khích xây dựng ý tưởng của mình dựa trên những gì mà người khác đã làm rồi: cái gì hiệu quả thì mình học hỏi, cái gì không hiệu quả thì xem xét để không đi vào vết xe đổ. Giống như vĩ nhân thế giới Isaac Newton từng nói: “Nếu tôi có thể nhìn xa hơn, đó là bởi vì tôi được đứng trên vai của những người khổng lồ” — việc công nhận và cân nhắc về thành quả hay thất bại của những người đi trước sẽ giúp học sinh tiến nhanh hơn tới mục tiêu của mình nhờ tránh được lãng phí thời gian, công sức cố sáng chế ra thứ mà thực chất đã được người khác hoàn thiện.

Lăng kính Tư duy Hệ thống tạo điều kiện để học sinh khám phá, tiếp cận với những giải pháp đã được thực hiện bởi các cá nhân, tổ chức khác nhau trong nỗ lực giải quyết vấn đề. Những giải pháp có sẵn này sẽ đóng vai trò nền tảng trong quá trình học sinh xây dựng và phát triển giải pháp của bản thân mình trong lăng kính “Đổi mới sáng tạo.”

Vấn đề 4b: Hiểu nhầm rằng giải pháp cho vấn đề là phải sáng tạo, và do đó không cần bám theo khuôn khổ nào

Nhắc đến sáng tạo, người ta thường dễ mường tượng ra một môi trường làm việc phóng khoáng, bỏ qua mọi rào cản. Đây là một hiểu lầm khá phổ biến - kể cả những công việc mang tính nghệ thuật rất cao như hội họa, người họa sĩ cũng không bao giờ có được sự tự do tuyệt đối: họ cần đi qua các bước với thứ tự nhất định (ví dụ phải có ý tưởng trước, sau đó lên kế hoạch cho bố cục, cuối cùng mới là thực hiện chi tiết), đồng thời phải điều chỉnh tác phẩm của mình theo những giới hạn nhất định (chẳng hạn như tính chất của chất liệu đang được sử dụng hay kích thước của sản phẩm). Nếu không có trình tự công việc cụ thể và làm ngơ những giới hạn, quá trình sáng tạo sẽ dễ trở nên hỗn loạn, có khi chẳng dẫn đến được một sản phẩm nào cả.

Điều này đặc biệt đúng khi chúng ta cố gắng tìm ra một giải pháp cho vấn đề. Không phải cứ nhìn đủ lâu vào vấn đề và để trí tưởng tượng thả sức bay bổng, “bắt” lấy bất kỳ giải pháp nào xuất hiện trong đầu thì sẽ cho ra đời giải pháp tốt nhất. Để giải pháp được đưa ra là tối ưu, một số công việc thiết yếu sẽ cần được thực hiện trước như: (a) xác định vấn đề, (b) nghiên cứu và phân tích nhu cầu, thực trạng, nguyên nhân, (c) nghĩ về nhiều phương án/ý tưởng khác nhau cho giải pháp, và (d) cân nhắc về những giới hạn, rủi ro tiềm ẩn khi đang hình thành giải pháp. Với một danh sách những việc cần làm như vậy, chúng ta sẽ không bỏ sót các yếu tố quyết định sự thành bại của một giải pháp, đồng thời tối đa hóa lợi ích, tối thiểu hóa ảnh hưởng tiêu cực đến từ giải pháp mà mình lựa chọn.

Lăng kính “Đổi mới sáng tạo” giới thiệu cho học sinh một quy trình thiết kế giải pháp với đầu công việc cần làm thiết yếu, đóng vai trò là một khung sườn dẫn dắt học sinh đi từ nghiên cứu, phân tích vấn đề, đến phát triển, tinh chỉnh ý tưởng để đến được giải pháp tối ưu nhất.

Vấn đề 5: Giải quyết vấn đề mà không chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ

Để giải quyết các vấn đề lớn, mỗi cá nhân làm gì đó là không đủ. Chúng ta cần có sự hợp lực, góp sức để thực hiện những giải pháp mang tính toàn diện hơn, xử lý một cách hệ thống những nguyên nhân/yếu tố khác nhau và tính chất duy trì lẫn nhau của những nguyên nhân, yếu tố tác động này. Vấn đề và nguyên nhân lớn (ví dụ như thiếu nước sạch ở nhiều nơi trên thế giới vì không đủ cơ sở hạ tầng) không thể được giải quyết hiệu quả, triệt để bởi những hành động nhỏ lẻ (đóng vòi nước khi không sử dụng). Đương nhiên, hành động của cộng đồng bắt buộc phải xuất phát từ ý thức, hành động nhỏ của mỗi cá nhân, nhưng cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổ chức, tập hợp những hành động của cá nhân để tạo thành một nỗ lực tập trung, có sức ảnh hưởng lớn.

Đối với những vấn đề có quy mô nhỏ hơn, trí tuệ tập thể, hay đơn giản hơn là tìm kiếm sự giúp đỡ phần lớn thời gian vẫn có khả năng đem lại kết quả tốt hơn so với việc tự nghĩ ra và tự triển khai giải pháp một mình. Quan trọng là phải biết tận dụng số đông một cách hợp lý, đúng lúc.

Lăng kính “Cộng tác” giúp học sinh nhận thức được rằng cộng tác đúng người, đúng cách sẽ giúp mọi người đạt được mục tiêu chung, tối đa hóa giá trị thực tế của giải pháp. Đặc biệt là đối với vấn đề lớn cần sự hợp lực, tổ chức bài bản của nhiều cá nhân, tổ chức khác nhau, càng chẳng có lý do gì mà học sinh phải đơn độc tự giải quyết các vấn đề được coi là vấn đề của toàn nhân loại cả.

Những phân tích trên đây cho thấy ứng dụng rộng rãi của của 5 lăng kính GCED (hay 5 lối tư duy) vào giải quyết vấn đề, dù đó là vấn đề thường ngày trong cuộc sống hay mang tính toàn cầu, vĩ mô. Tuy rằng đây không phải những lối tư duy quan trọng duy nhất, có thể coi 5 Lăng kính là bộ công cụ cơ bản để học sinh hình thành kiến thức, hiểu biết một cách tương đối toàn diện về một vấn đề bất kỳ, từ đó có được quan điểm khách quan về vấn đề và suy nghĩ nghiêm túc, hiệu quả về giải pháp cho vấn đề ấy.

5 Lăng kính xuất hiện trong GCED như thế nào? Cần lưu ý những gì khi giới thiệu về 5 Lăng kính?

Chương 1 có 21 tiết, và trừ đi 1 tiết giới thiệu Chương trình thì 20 tiết còn lại sẽ chia đều ra đề khám phá Chủ đề trọng tâm qua 5 Lăng kính trên. Ở tất cả các khối lớp, mỗi Lăng kính đều sẽ kéo dài 4 tiết, và trong 4 tiết này HS sẽ tiếp cận Chủ đề trọng tâm theo một khía cạnh, góc nhìn khác nhau.

Yêu cầu cụ thể của các bài liên quan tới 5 Lăng kính đã có trong PM Mapping; bên trên chỉ là những yêu cầu chung nhất, mang tính tổng quan nhất của Chương trình GCED. Chẳng hạn, khi nhìn vào danh sách này, thầy cô sẽ nắm được là Lăng kính 2 sẽ luôn tập trung vào việc tìm hiểu các nguyên nhân dẫn tới, và duy trì vấn đề. Những nội dung này có thể đã được đề cập đâu đó ở Lăng kính 1 (bởi chính thầy cô, hoặc HS), tuy nhiên 4 tiết của Lăng kính 2 sẽ là nơi mà HS được đào sâu hơn về các nguyên nhân này. Đào sâu kỹ tới mức nào thì PM Mapping đã nêu rõ trong mục tiêu chương và mục tiêu bài học.

5 Lăng kính sẽ được dạy một cách chính thức nhất, rõ ràng nhất trong Chương 1. Tuy vậy, những năng lực cốt lõi của các lăng kính sẽ được luyện tập, củng cố ở nhiều cơ hội khác nhau xuyên suốt năm học, dù đó là khi học sinh đang thực hiện bài Truy vấn Cá nhân, khi chuẩn bị và triển khai Dự án Hành động, hay kể cả khi suy ngẫm về quá trình học tập. Chẳng hạn, khi HS nghiên cứu về 1 khía cạnh cụ thể của vấn đề "bất bình đẳng xã hội", chắc chắn HS phải tìm hiểu, và phải đề cập tới những nguyên nhân dẫn tới, và duy trì bất bình đẳng xã hội. Ở ví dụ này, HS cần chủ động dùng Lăng kính 2: Tư duy Hệ thống vào việc tim hiểu thông tin cho bài Truy vấn Cá nhân của mình.

Tuy nhiên, thầy cô không nhất thiết phải giới thiệu khái niệm 5 Lăng kính cho HS, nếu như HS không có khả năng hiểu 5 Lăng kính là gì, và để làm gì. Nói cách khác, thầy cô chỉ nên cân nhắc tới việc giới thiệu 5 Lăng kính này cho HS nếu HS có đủ khả năng nhận thức, và hiểu ý nghĩa của 5 Lăng kính này.

VD: Lăng kính 2 - Tư duy Hệ thống nhằm giúp HS nhìn nhận rõ tính phức tạp của vấn đề, không đơn giản hóa một cách bừa bãi (đã được đề cập rõ hơn ở trên). Tuy nhiên, nếu như thầy cô cho rằng HS chưa thể nhận thức được việc này, thầy cô chỉ cần giới thiệu cho HS (khi dạy tới Lăng kính 2) rằng HS sẽ được khám phá về những nguyên nhân khác nhau dẫn tới, và duy trì vấn đề. Như vậy là đủ.

Do đó, PCT khuyên rằng thầy cô không nên nhắc tới khái niệm 5 Lăng kính cho tới bậc Trung học, và cũng không cần đào sâu quá nhiều về ý nghĩa của mỗi Lăng kính nếu như HS chưa có đủ khả năng nhận thức.

12 Chủ đề trọng tâm

GCED sẽ đề cập tới những Chủ đề trọng tâm/vấn đề toàn cầu nào?

Các Chủ đề trọng tâm trong GCED được xây dựng từ các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. Thông qua việc học và nghiên cứu các Chủ đề trọng tâm, học sinh sẽ có cơ hội tiếp xúc với những vấn đề dài hạn được cả thế giới quan tâm, từ đó áp dụng những kiến thức học được để giúp đỡ cho cộng đồng của mình.

GCED sử dụng mô hình các vấn đề toàn cầu của World Bank (Ngân hàng Thế giới) để phân loại các Chủ đề trọng tâm. Việc phân loại nhằm mục đích hệ thống hóa các Chủ đề trọng tâm, đồng thời thể hiện được tính chu trình giữa các chủ đề.

Theo mô hình này, có thể phân chia các Chủ đề trọng tâm thành 4 nhóm chủ đề chính sau:

  1. Con người;
  2. Hành tinh;
  3. Công bằng xã hội;
  4. Lao động & Tiêu thụ.

Cả 4 nhóm chủ đề sẽ được dạy xen kẽ với nhau để học sinh ở mỗi khối lớp được tiếp xúc với càng nhiều nhóm chủ đề càng tốt. Các Chủ đề trọng tâm trong cùng một nhóm chủ đề sẽ được sắp xếp theo thứ tự khối được học, độ phức tạp & yêu cầu kiến thức đã học tăng dần.

Khối Nhóm chủ đề 1

Con người

Nhóm chủ đề 2

Hành tinh

Nhóm chủ đề 3

Công bằng xã hội

Nhóm chủ đề 4

Lao động & Tiêu thụ

1 Sự đa dạng
2 Nước sạch
3 Sức khỏe & chăm sóc sức khỏe
4 Động & thực vật trên Trái Đất
5 Quy tắc xã hội
6 Giảm nghèo
7 Biến đổi khí hậu
8 Bất bình đẳng xã hội
9 Sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững
10 Phổ cập giáo dục
11 Năng lượng bền vững
12 Chất lượng cuộc sống

Nên tiếp cận các Chủ đề trọng tâm/vấn đề toàn cầu như thế nào?

Như đã nói ở trên. HS sẽ tiếp cận Chủ đề trọng tâm qua 5 Lăng kính. Qua mỗi Lăng kính. HS sẽ tìm hiểu về những thông tin mang tính cơ bản nhất của Chủ đề này (VD: thực trạng. nguyên nhân. giải pháp. v.v.)

Tới đây, một câu hỏi lớn mà thầy cô sẽ đặt ra. Vậy, tôi nên dạy thông tin gì cho HS? Chẳng hạn, nếu như phải dạy về nguyên nhân dẫn tới biến đổi khí hậu, thì tôi nên dạy những nguyên nhân nào?

Câu hỏi này hoàn toàn hợp lý. vì không phải thầy cô nào cũng đã tìm hiểu nhiều về các vấn đề toàn cầu nói chung, hay các vấn đề toàn cầu được đề cập ở GCED. Và, vấn đề nào thì cũng phức tạp, do đó một người không thể biết hết những thông tin xoay quanh vấn đề được.


Để giúp thầy cô tiếp cận các Chủ đề trọng tâm của GCED hiệu quả hơn, xin mời thầy cô đọc tài liệu đào tạo về 12 Chủ đề trọng tâm. Dưới đây là một số lưu ý trước khi đọc:

  • Đây là những nội dung mang tính tổng quát nhất, hướng tới đối tượng người đọc là những người chưa bao giờ tìm hiểu, hoặc chưa có nhiều hiểu biết về các Chủ đề trọng tâm/vấn đề toàn cầu. Do đó, có thể coi những nội dung dưới đây là 1 cuốn sách "nhập môn" ngắn để giúp thầy cô tiếp cận Chủ đề dễ dàng hơn.
  • Như đã nói, những nội dung này được viết cho đối tượng người đọc là thầy cô, với mục đích giúp thầy cô hiệu rõ hơn về vấn đề. Do đó, không phải nội dung nào cũng phù hợp để giới thiệu trực tiếp cho HS. Nếu thầy cô đọc tài liệu và đã hiệu vấn đề rồi, nên chọn cách tiếp cận phù hợp để giới thiệu lại cho HS. Những nội dung mà thầy cô có thể giới thiệu trực tiếp cho HS đã được liệt kê trong mục "Tài nguyên" ở mỗi bài học trong Chương 1.
  • Tất nhiên, vì đây là sách "nhập môn", chắc chắn là PCT không thể đề cập tới mọi khía cạnh về Chủ đề trọng tâm được. Thầy cô vẫn được khuyến khích để tự tìm hiểu thêm, sau khi đã đọc xong tài liệu này.
  • Nội dung của mỗi khối thường đi kèm với link bài viết gốc (mà PCT đã tham khảo để viết), và thầy cô có thể đọc thêm những bài viết này để bổ sung kiến thức nếu có thời gian.


K1: Sự đa dạng

Sự đa dạng: Chúng ta khác nhau, nhưng chúng ta cũng giống nhau


Khi quá trình toàn cầu hóa và đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng khắp trên thế giới, khái niệm “sự đa dạng” ngày càng hiện diện trên mọi khía cạnh của cuộc sống. Sự đa dạng, hiểu một cách đơn giản, là sự khác biệt giữa con người với nhau. Sự khác biệt này có thể thể hiện ở các khía cạnh như chủng tộc, giới tính, giai cấp, tôn giáo, văn hóa, quốc tịch, quê quán, ngôn ngữ, trải nghiệm sống hay thậm chí những lựa chọn mang tính cá nhân như lối sống, thói quen, chuẩn mực đạo đức. Mặc dù có thể đem lại những khó khăn nhất định khi con người cố gắng chung sống với nhau, sự đa dạng giúp chúng ta mở mang tri thức, quan điểm về thế giới, đồng thời nuôi nấng lòng khoan dung, trắc ẩn đối với người khác.

1. Sự đa dạng biểu hiện như thế nào?

Sự đa dạng là luôn tồn tại và hiện diện ở khắp mọi nơi, dù bạn có để ý hay không. Thử nghĩ về trải nghiệm của chính bản thân mình: trong một ngày, bạn gặp những ai? Những người này có cùng quê với bạn? Có tin vào tôn giáo mà bạn tin? Họ có giọng địa phương hay sử dụng một loại ngôn ngữ khác không phải là tiếng Việt? Gia cảnh của họ ra sao? Họ có sinh ra và lớn lên trong môi trường giống bạn? Quan điểm chính trị của họ đối lập hay đồng thuận với bạn?

Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu một số sự đa dạng quanh thế giới, bao gồm đa dạng sắc tộc, đa dạng ẩm thực, đa dạng văn hóa, và đa dạng tôn giáo.

Lưu ý rằng sẽ có nhiều thông tin về đa dạng sắc tộc được cung cấp trực tiếp trong văn bản này, trong khi các loại đa dạng khác thì thường chỉ bao gồm một vài câu giới thiệu kèm đường dẫn đến nguồn đọc thêm. Điều đó không có nghĩa rằng đa dạng sắc tộc là sự đa dạng quan trọng nhất, hay là khía cạnh duy nhất nên được dạy trong chủ đề này. Lý do đơn thuần là đa dạng sắc tộc khó tìm nguồn bằng tiếng Việt để các thầy cô tiếp cận hơn so với các loại đa dạng còn lại, vậy nên một số nguồn đã được dịch và đưa thông tin vào văn bản này.

Đa dạng sắc tộc
Đa dạng sắc tộc.png
  • Trên quy mô toàn cầu, có hàng nghìn nền văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo và màu da khác nhau. Người ta ước tính rằng khoảng 35-50% các cuộc hôn nhân hiện nay là giữa các chủng tộc hoặc giữa các sắc tộc khác nhau - một điều hoàn toàn chưa từng được biết đến chỉ khoảng 50 năm trước.
  • Các quốc gia ở châu Phi có sự đa dạng về sắc tộc lớn nhất. Theo dữ liệu, 20 quốc gia đa dạng nhất trên thế giới đều thuộc châu Phi. Có nhiều yếu tố dẫn đến điều này, và một trong số đó là vì lục địa đã có một thời gian rất dài là thuộc địa. Một số lãnh chúa châu Âu đã cố tình tạo ra sự khác biệt giữa các sắc tộc để giúp họ đảm bảo quyền lực (nổi tiếng nhất là sự chia rẽ giữa người Hutu và người Tutsi ở Rwanda), và sự chia rẽ này tồn tại đến tận bây giờ. Các cường quốc châu Âu cũng chia cắt châu Phi thành các vùng lãnh thổ và tài sản, gần như không cân nhắc đến những cư dân ở đó. Khi người châu Âu rời đi, biên giới được giữ nguyên như vậy, buộc các nhóm người/tộc người khác nhau ở chung một quốc gia.[1]
  • Nhật Bản là quốc gia có mức độ đồng nhất cao nhất, với phần lớn dân số là người thuộc dân tộc Nhật Bản. Nhật Bản có một lịch sử lâu dài với chủ nghĩa biệt lập, ngăn cản những người thuộc các chủng tộc và sắc tộc khác đến đất nước này.[2]
  • Các nước ở châu Âu tương đối đồng nhất về sắc tộc. Trong nhiều thế kỷ, biên giới của châu Âu có nhiều thay đổi lớn và thường xuyên, và chỉ gần lại đây mới ổn định như những gì chúng ta thấy ngày nay, trong đó hầu hết các nhóm sắc tộc lớn đều có một quốc gia của riêng họ.
  • Châu Mỹ thường khá đa dạng, có thể một phần do chính sách nhập cư tương đối cởi mở. Canada thậm chí còn đa dạng sắc tộc hơn Hoa Kỳ và Mexico. Ngoại lệ là Argentina và Chile - hai nước này có xu hướng đồng nhất hơn.
  • Việt Nam, giống như nhiều quốc gia châu Á khác, không có nhiều sự khác biệt về sắc tộc. Việt Nam có 54 dân tộc được công nhận bởi nhà nước, và mỗi dân tộc lại có ngôn ngữ, truyền thống và văn hóa riêng. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 86,2% dân số, tiếp theo đó là Tày (1.92%), Thái (1.89%), Mường (1.51%), Hmong (1.45%), Khmer (1.37%), Nùng (1.13%), Dao (0.93%), Hoa (0.78%), và tất cả những dân tộc còn lại chiếm khoảng 3.7%. Với 54 dân tộc khác nhau như vậy nhưng Việt Nam so với các nước khác trên thế giới vẫn chỉ được coi là “tương đối đồng nhất,” cho thấy sự đa dạng có thể lớn đến mức nào ở những khu vực, quốc gia khác trên thế giới.  

Đa dạng văn hóa[3]

Đa dạng trong lễ hội, tập tục, trang phục, nghi lễ, âm nhạc, biểu diễn nghệ thuật, v.v. đều là biểu hiện của sự đa dạng văn hóa. Sự đa dạng văn hóa không chỉ tồn tại giữa các châu lục hay quốc gia khác nhau - nó còn xuất hiện giữa các tỉnh thành trong một nước, hay giữa các dân tộc trong cùng một vùng lãnh thổ.

Đa dạng ẩm thực[4]

Sự đa dạng về ẩm thực thể hiện ở sự khác biệt trong nguyên liệu, hương liệu, cách trình bày, và cách chế biến. Ví dụ, ẩm thực châu Á thường có tỷ lệ rau củ trong món ăn cao hơn ẩm thực châu Âu, hay Thái Lan và Hàn Quốc sử dụng ớt trong các món ăn đặc trưng nhiều hơn rất nhiều so với các nước khác. Đa dạng ẩm thực có liên quan mật thiết đến đa dạng văn hóa.

Đa dạng tôn giáo

Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi, và tổ chức. Tôn giáo rất đa dạng: ước tính hiện tại có hơn 4.000 tôn giáo, nhóm tín ngưỡng và giáo phái tồn tại trên khắp thế giới. Tôn giáo phổ biến nhất là Thiên chúa giáo (chiếm 31.5% dân số thế giới), tiếp theo là Đạo hồi với 23.2%. [5]. Có thể đọc thêm về đa dạng tôn giáo tại Việt Nam[6] và trên thế giới.[7]


2. Khác biệt có thể dẫn đến những vấn đề gì?

Với bản năng con người, chúng ta thường có xu hướng tin tưởng và dễ hòa đồng với những người giống chúng ta. Ngược lại, với những người cho thấy sự khác biệt tương đối lớn, con người có thể trở nên đề phòng và sinh ra những phản ứng phòng vệ. Có thể kể đến một số vấn đề như:

  • Thành kiến, định kiến: đưa ra những giả định hoặc khái quát hóa về một người hoặc một nhóm người dựa trên đặc điểm của họ một cách không công bằng. Ví dụ như nghĩ rằng “con gái không giỏi các môn tự nhiên” hoặc “người có hình xăm là người không đàng hoàng.”
  • Phân biệt đối xử: khi một người bị từ chối, phủ nhận những gì họ đáng được nhận, hay bị coi thường, ghét bỏ vì những đặc điểm của họ. Ví dụ một cửa hàng bánh từ chối làm bánh cưới cho một cặp đôi đồng tính, hay không nhận một người vào làm việc chỉ vì vùng miền nơi họ sinh ra và lớn lên. Phân biệt đối xử cũng có thể xuất hiện dưới hình dạng khác là cô lập—từ chối hoặc không tạo điều kiện cho một cá nhân hoặc nhóm người tham gia vào các hoạt động chung (ví dụ như một học sinh vì bị tật ở chân mà các học sinh khác trong lớp không cho chơi các trò chơi tập thể cùng).
  • Xung đột: bất đồng giữa các cá nhân/tập thể phát sinh từ sự khác biệt trong suy nghĩ, thái độ, sự hiểu biết, sở thích, thậm chí là nhận thức. Xung đột có thể dẫn đến những cuộc tranh cãi, ẩu đả, và chắc chắn là làm mất đi sự yên bình và hòa hợp.

Có vẻ như sự khác biệt mang lại rất nhiều những vấn đề khác nhau. Nhưng liệu có phải sự khác biệt sẽ luôn chỉ đem lại thử thách khi con người cố gắng chung sống với nhau hay không? Câu trả lời chắc chắn là không. Sự khác biệt, hay sự đa dạng trong suy nghĩ, trải nghiệm, kiến thức, quan điểm đã được chứng minh là đem lại lợi ích cho cộng đồng nơi mà sự đa dạng tồn tại, được công nhận và trân trọng.

3. Sự đa dạng có thể giúp ích như thế nào?

Trước tiên hết, sự đa dạng thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới. Mỗi nền văn hóa, mỗi quốc gia, mỗi người đều nhìn thế giới theo một cách khác nhau, và có những kiến thức, quan điểm, góc nhìn khác nhau. Chính vì sự khác biệt này, chúng ta luôn có thể học được điều gì đó mới. Nếu tất cả mọi người trên thế giới này đều giống hệt nhau, sẽ chẳng ai học được gì mới cả. Nhưng bởi vì chuyện đó chắc chắn không xảy ra, ai cũng có thể học được điều gì đó bằng cách lắng nghe những người có kinh nghiệm, quan điểm, xuất thân khác mình. Và khi biết được một điều gì đó mới, sáng tạo và đổi mới có thể được khơi dậy.

Đặc biệt là trong quá trình giải quyết vấn đề. Khi được tập hợp lại để cùng nhau giải quyết một vấn đề, mỗi người thường sẽ mang đến những thông tin, ý kiến, quan điểm khác nhau, từ đó có thể nâng cao hiểu biết về vấn đề và chất lượng của giải pháp.

Thứ hai, sự đa dạng tạo điều kiện cho sự phát triển cá nhân. Sự đa dạng có thể thúc đẩy chúng ta bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân để tiếp xúc với và chấp nhận những con người, những văn hóa khác. Điều này giúp chúng ta trở nên cởi mở hơn với những kiến thức mới, những quan điểm mới, từ đó dễ dàng mở rộng tầm hiểu biết của bản thân. Không những thế, sự đa dạng có thể giúp phá vỡ những định kiến trước đây. Ví dụ như một định kiến thường gặp là phụ nữ không thể (và không nên) nắm giữ các vị trí lãnh đạo quan trọng, tuy nhiên, ngày càng có nhiều những bóng hồng đứng đầu tổ chức, doanh nghiệp[8], hay thậm chí là đứng đầu một đất nước[9]. Sự đa dạng này sẽ giúp giảm thiểu những định kiến về việc phụ nữ có thể và không thể làm gì, thiết lập một trật tự bình thường mới của xã hội nơi phụ nữ không bị kìm kẹp bởi những tư tưởng phi lý.

Cuối cùng, mỗi người có vai trò riêng trong cộng đồng và xã hội, và sự khác biệt giữa chúng ta cho phép chúng ta hoàn thành những vai trò đó một cách tốt nhất có thể. Tùy vào đặc điểm của một cá nhân (hướng nội/ hướng ngoại, lý trí/ cảm xúc, quan sát/ trực giác, v.v.), mỗi người sẽ phù hợp với một công việc mà ở đó người ấy sẽ được phát triển hết khả năng của mình và có thể cống hiến nhiều nhất. (xem thêm về 16 loại tính cách và gợi ý về lựa chọn nghề nghiệp cho từng loại tính cách[10]) Điều này sẽ giúp xã hội vận hành một cách trơn tru, hiệu quả.

Hãy nhìn vào một ví dụ tương đồng với một xã hội thu nhỏ - làm việc nhóm: những thành viên tự tin trước đám đông, hướng ngoại thường sẽ nhận nhiệm vụ trình bày, dẫn dắt; trong khi những thành viên trầm hơn sẽ nhận công việc “phía sau”, như ghi chép, nghiên cứu, hoặc đưa ra ý tưởng. Thành viên có kỹ năng xã hội nổi trội sẽ chịu trách nhiệm điều phối thảo luận, đảm bảo tất cả mọi người đều có cơ hội chia sẻ ý tưởng và đóng góp vào công việc chung của nhóm. Thật khó tưởng tượng một nhóm sẽ hoạt động ra sao nếu ai cũng chỉ muốn làm hoặc chỉ có khả năng thuyết trình. Điều quan trọng là chúng ta biết cách nhìn nhận sự khác biệt như thế mạnh và tận dụng thế mạnh ấy để đạt được mục tiêu chung.

Cũng giống như nhiều hiện tượng khác trong cuộc sống, sự đa dạng hay sự khác biệt có thể gây ra những vấn đề cho con người, nhưng đồng thời cũng không thể phủ nhận tầm quan trọng của nó trong việc thúc đẩy con người tồn tại và phát triển.


4. Làm sao để sự đa dạng mang lại nhiều lợi hơn hại?

Câu trả lời khá đơn giản: sự tôn trọng. Tôn trọng không có nghĩa là không để ý đến sự khác biệt của mọi người, hoặc chỉ đơn thuần là miễn cưỡng chấp nhận. Thay vào đó, tôn trọng bao gồm nhận ra sự khác biệt, hiểu tầm quan trọng của những khác biệt ấy, và phản hồi với tinh thần cầu thị, lịch sự, và quan tâm chân thành[11]. Tôn trọng cũng có nghĩa là không chỉ tập trung vào những điểm khác nhau giữa bản thân và người khác; tôn trọng còn là tôn vinh những điều độc đáo mà mỗi cá nhân mang lại, và tận dụng tất cả những điểm chung của chúng ta.

Tôn trọng sự khác biệt không chỉ dừng lại ở tôn trọng sự khác biệt của người khác - nó còn bao gồm cả sự chấp nhận đối với chính sự khác biệt của bản thân mình. Nếu không thể cảm thấy thoải mái với chính sự khác biệt của mình và chỉ muốn giống những người còn lại trong nhóm, trong cộng đồng, sẽ rất khó để người đó có khả năng tôn trọng sự khác biệt của người khác một cách chân thành.

Nhưng mặt khác, không phải cứ khác biệt là sẽ xứng đáng được tôn trọng, được công nhận. Có những sự khác biệt là vô nghĩa, thậm chí phi lý và cần được loại bỏ. Nhẹ nhàng thì có vi phạm luật giao thông, ăn mặc không phù hợp địa điểm (chẳng hạn đi làm nhưng mặc quần đùi áo ba lỗ), hay đi học muộn. Nặng nề hơn là những tập tục bị coi là phi đạo đức, vi phạm nhân quyền và cần được loại bỏ, như là tảo hôn, cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ, chế độ đa thê, hiến tế người, v.v. Những hủ tục, nghi lễ này không nên được giữ gìn và quảng bá chỉ vì nó đóng góp vào sự đa dạng văn hóa.


5. Làm thế nào để cuộc sống được đa dạng hơn, từ đó làm phong phú trải nghiệm sống của bản thân?

Phát triển kiến thức của bản thân về các nền văn hóa, tôn giáo, giới tính, chủng tộc, dân tộc khác nhau và các đặc điểm hoặc biểu hiện văn hóa không giống với bản thân sẽ giúp chúng ta trở nên toàn diện hơn, đồng thời góp phần cải thiện thế giới mà chúng ta đang sống, biến thế giới trở thành một nơi cởi mở, hòa hợp, và yên bình.

Điều này có thể được thực hiện thông qua việc tự trau dồi kiến thức cho bản thân và nỗ lực hơn để tiếp xúc với những người khác mình[12]. Một số hành động cụ thể bao gồm:

  • Đọc sách, báo về các nền văn hóa, chủng tộc, tôn giáo, giới tính, v.v. khác để biết về những người không giống mình;
  • Xem phim mô tả cuộc sống và trải nghiệm khác bản thân;
  • Nghe podcast, các bài phỏng vấn những người có quan điểm khác;
  • Tham gia các lễ hội của các nền văn hóa, đất nước, dân tộc khác và tìm hiểu về nguồn gốc, ý nghĩa của chúng;
  • Tham gia các lớp học, câu lạc bộ mà có thể gặp gỡ và giao lưu với những người có xuất thân, trải nghiệm khác mình;
  • Thử những món ăn đặc trưng của những vùng khác nhau;  
  • Du lịch và tìm hiểu về văn hóa, tập tục, ẩm thực, v.v. của địa phương đó.

Dù hoạt động được lựa chọn là gì đi chăng nữa, điều quan trọng là việc trau dồi sự thấu hiểu về một người mới hay một nhóm người mới nên có chủ đích. “Có chủ đích” nghĩa là tìm hiểu về những người khác với một thái độ cầu thị, cởi mở; so sánh những điều mới lạ với những gì mình đã biết trước đây, và tìm hiểu vì sao sự khác biệt đó lại tồn tại, vì sao nó lại quan trọng — chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể học cách tôn trọng sự khác biệt, trân trọng sự đa dạng một cách chân thành.


Nguồn tham khảo

K2: Nước sạch

“Khát” nước sạch: Khi quyền cơ bản của con người không được đáp ứng


Những nhu cầu cơ bản của con người như ăn uống, nấu nướng, tắm rửa, giặt giũ không thể được đảm bảo khi không có nước sạch, hoặc nguồn nước sạch không đủ/không an toàn. Vai trò của nước sạch đối với sự tồn tại của con người là điều không thể chối bỏ (quyển sử dụng, tiếp cận nước sạch đã được công nhận là quyền con người) vậy nhưng nước sạch vẫn là một thực tế xa vời đối với nhiều cộng đồng trên khắp thế giới.

  • Có thiếu nước thật không khi mà 70% bề mặt Trái Đất là nước? Tình trạng thiếu nước có thực sự tệ như vậy?
  • Lời giải thích cho việc thiếu nước sạch là gì?
  • Con người đã làm gì để giải quyết vấn đề thiếu nước sạch? Đâu là giải pháp triệt để cho vấn đề này?


1. Điểm chung của một huyện vùng ven Hà Nội và một tiểu bang ở phía tây nước Mỹ là gì?

Câu trả lời là: Cả hai nơi này đều đang thiếu nước sạch trầm trọng, trong một khoảng thời gian rất dài. Ở huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, nhiều xã đã sống chung với cảnh thiếu nước suốt 70 năm nay. Giếng chỉ đủ nước sinh hoạt cho sáu tháng mưa, sáu tháng còn lại dù có tằn tiện đến đâu thì vẫn thiếu. Hàng xóm láng giềng sẵn sàng cho nhau cả yến gạo, nhưng múc thêm gàu nước cũng khó vì ai cũng thiếu, phải giữ lại để dùng. Nhà nào nước ít quá, tắm giặt cũng phải thay nhau về nhà người thân ở xã khác.

Cụ Quách Thị Tĩnh về làm dâu thôn Phú Hạ từ năm 18 tuổi, nay đã ngấp nghé 90. 70 năm về ở thôn Phú Hạ cũng là 70 năm cụ sống trong cảnh thiếu nước. Hiện cụ sống với con trai cả, gia đình có năm người thì bốn người phải ra giếng khoan ngoài cánh đồng tắm giặt, chỉ một mình cụ được tắm ở nhà. “Nghe các cháu khoe “sắp có nước sạch” từ mấy năm nay mà đến giờ đã thấy đâu. Lại sắp đến những ngày cả làng kìn kìn đi xin nước, mua nước rồi đấy” - cụ nói.[1]

Trong khi đó ở, California và các bang bờ Tây nước Mỹ đang chịu ảnh hưởng từ đợt hạn hán nghiêm trọng và kéo dài nhất trong hơn 1.200 năm. Tình trạng thiếu nước trở nên trầm trọng đến nỗi chính quyền bắt buộc các công ty nước cắt giảm lượng nước cung cấp từ 15 -20%, đồng thời giám sát chặt chẽ việc sử dụng nước của người dân cũng như doanh nghiệp[2].

Bà Deneka Samuel - Người dân thành phố Jackson, bang Mississippi, Mỹ cho biết: "Họ nói rằng nước này có hại cho da, rằng chúng tôi không được đánh răng, súc miệng hay rửa mặt và tắm bằng nước này. Nhưng làm sao bắt bọn trẻ con nhịn tắm được, nên tôi đành phải đổ thuốc tẩy Clorox vào".

Trên thực tế, vấn đề này không chỉ xảy ra ở hai khu vực này, mà còn xảy ra ở rất nhiều nơi trên thế giới, với mức độ nghiêm trọng khác nhau. Không quan trọng là nước phát triển hay đang phát triển, nơi nào cũng có thể xảy ra vấn đề về nước sạch. Điều này khiến chúng ta phải đặt ra câu hỏi: Vậy thì vì sao lại thiếu nước sạch?


2. 70% bề mặt Trái Đất là nước, làm sao lại khan hiếm nước được?

97% lượng nước trên Trái Đất là nước mặn. Trong 3% nước ngọt còn lại, chưa đến 1% là con người có thể tiếp cận và khai thác được, trong hình thái là nước bề mặt (sông, hồ) hoặc nước ngầm.

1% nghe có vẻ ít, nhưng thực ra là có đủ nước ngọt trên thế giới cho tất cả mọi người. Trên lý thuyết, Trái Đất không hề thiếu nước ngọt để con người sử dụng - trái lại, chúng ta có đủ nước trên hành tinh này để đáp ứng nhu cầu của dân số thế giới hiện tại (hơn 7 tỷ người), thậm chí là vẫn đủ khi dân số chạm mốc 9 tỷ hoặc hơn.

Vậy, vấn đề ở đây là gì? Con người không chỉ cần nước ngọt, mà còn cần nước ngọt SẠCH. Khi nói về nước sạch, ta thường nghĩ về “nước uống được”, tuy nhiên nước phục vụ sinh hoạt hàng ngày trong gia đình cũng cần phải là nước sạch, ví dụ như nước để thực hiện các hoạt động thường ngày như chuẩn bị thức ăn, tắm rửa, đánh răng, rửa bát, giặt quần áo, lau dọn nhà cửa, tưới cây, bơi lội.[3]

Nếu khó tưởng tượng về nhu cầu nước sạch của con người, hãy thử xem video sau được thực hiện bởi World Vision: Bạn có thể sống chung với nước bẩn không?[4]

Dưới đây là một vài con số biết nói về vấn đề thiếu nước sạch trên thế giới:

Tại Việt Nam Trên thế giới
  • Chỉ có 39% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch.
  • Ở miền Bắc, khoảng 7 triệu người sống quanh khu vực Hà Nội có nguy cơ nhiễm độc thạch tín nghiêm trọng. Nồng độ thạch tín trong nước tăng cao có thể gây ra ung thư, các vấn đề thần kinh và các bệnh về da.[5]
  • Khoảng 9.000 người tử vong mỗi năm do nguồn nước và vệ sinh kém.[6]
  • Khoảng 20.000 người mắc bệnh ung thư mới phát hiện mà một trong những nguyên nhân chính là do ô nhiễm nguồn nước.
  • Cứ 10 người thì sẽ có 1 người không có nước sạch để sử dụng;[7]
  • Mỗi ngày, hơn 800 trẻ em dưới 5 tuổi chết vì tiêu chảy do nước bị ô nhiễm, điều kiện vệ sinh kém, và thói quen vệ sinh không an toàn;
  • Năm 2017, ước tính có khoảng 3 tỷ người không có đủ nước để rửa tay tại nhà, dù đây là một trong những cách rẻ, dễ, và hiệu quả nhất để phòng tránh bệnh tật.[8]
  • Năm 2016, 1 trên 4 cơ sở y tế trên thế giới thiếu hệ thống cấp nước cơ bản cho các hoạt động y tế thiết yếu.
  • Ngay cả những nước phát triển cũng thiếu nước sạch. Nhiều nơi chỉ cho phép người dân sử dụng nước theo “khẩu phần,” và chỉ cho mục đích sinh hoạt và vệ sinh cá nhân.[9]

Vậy, lý do gì khiến cho việc thiếu nước sạch trở nên nghiêm trọng tới vậy? Điều gì khiến cho người dân ở Sóc Sơn và California rơi vào tình cảnh thiếu nước sạch, dù hai nơi này cách xa nhau tới hàng chục nghìn km?


3. Lời giải thích cho việc thiếu nước sạch là gì?

Câu trả lời không chỉ đơn giản là: “Thiếu nước sạch vì không có đủ nước”, hay “thiếu nước sạch vì không có ý thức bảo vệ nguồn nước sạch”. Nếu người dân ở khu vực A có ý thức bảo vệ nước sạch hơn khu vực B, không có nghĩa rằng khu vực A sẽ có nhiều nước sạch hơn để sử dụng. Vấn đề phức tạp hơn vậy nhiều.

Đầu tiên, phải kể đến việc thiếu nước sạch do các tác nhân từ tự nhiên. Những nơi này hoặc có nguồn nước ngọt rất hạn chế (VD: các khu vực khô hạn, ít mưa như Trung Á, Tây Á, và Bắc Phi), hoặc thường xuyên chịu ảnh hưởng của hạn hán, thiên tai, dịch bệnh, v.v. Đó là còn chưa kể tới việc biến đổi khí hậu (vốn do con người chủ yếu gây ra) cũng đang mang lại những tác động tiêu cực tới điều kiện tự nhiên của các khu vực chịu ảnh hưởng.[10]

Đáng chú ý hơn cả là việc thiếu nước sạch do các tác nhân từ con người. Thiếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ để lấy nước từ các nguồn có sẵn (sông hồ, tầng ngậm nước, v.v.) khiến cho nhiều khu vực không có nước sạch để sinh sống hàng ngày. Chưa kể tới việc nguồn nước sạch đang ngày càng bị ô nhiễm do biến đổi khí hậu & các vấn đề khác về môi trường (mà chính con người gây nên).

Trong số các hoạt động gây ô nhiễm môi trường này, đáng kể nhất là các ngành công nghiệp & công nghiệp hiện đại. Lượng nước sạch có trên Trái Đất đang được ưu tiên sử dụng trong các hoạt động nông nghiệp (69%) và công nghiệp (19%); chỉ có 12% nguồn nước sạch là được dùng để phục vụ cho mục đích sinh hoạt. Dùng nhiều nước đồng nghĩa với việc có nhiều nước thải, và lượng nước thải của các ngành nông nghiệp & công nghiệp đã và đang là một vấn đề gây nhức nhối với bất cứ quốc gia nào.

Ở Việt Nam, mặc dù có mạng lưới sông ngòi dày đặc, tài nguyên nước phong phú, nước ta vẫn bị xếp vào nhóm quốc gia thiếu nước theo đánh giá của Hội tài nguyên nước thế giới. Lý do là vì quá trình sản xuất, phát triển kinh tế xã hội đã để lại nhiều hậu quả lên môi trường nước, gây ô nhiễm và cạn kiệt dần những nguồn nước sẵn có. Việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên rừng, gây xói mòn đất cũng làm cho tình trạng thiếu nước sạch đang có xu thế gia tăng.[11]

Vì vấn đề thiếu nước sạch vẫn đang xảy ra, và càng ngày càng nghiêm trọng hơn, có thể suy ra rằng những tác nhân gây nên vấn đề vẫn đang tồn tại. Vậy, con người đã làm gì để từng bước xử lý những tác nhân gây ra vấn đề này?


4. Con người đã làm gì để giải quyết vấn đề thiếu nước sạch?

Đối với việc thiếu nước sạch do các tác nhân như điều kiện khí hậu hay đặc điểm đặc trưng của một vùng, rất khó để có được một giải pháp trực tiếp, triệt để (chẳng hạn, làm sao để thay đổi khí hậu khô cằn sang thành khí hậu nhiệt đới ẩm, nhiều mưa; hay điều chỉnh mạng lưới sông ngòi của một địa phương). Do đó, hiện tại con người chỉ có thể tìm cách hạn chế các ảnh hưởng đến từ tự nhiên, hay xử lý vấn đề cạn kiệt nguồn nước một cách gián tiếp, ví dụ như trồng cây gây rừng (để tránh xói mòn đất, từ đó giữ được nước ngầm), hay giảm lượng khí thải nhà kính (để làm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, nhờ vậy mà sẽ hạn chế được các đợt hạn hán bất thường). Tuy vậy, vì đây đều là các giải pháp gián tiếp cho vấn đề thiếu nước sạch, sẽ khá khó để nhìn thấy được hiệu quả rõ rệt trong thời gian ngắn. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không nên trồng cây, trồng rừng, hay chú ý đến lượng khí thải đang được tạo ra — đây vẫn là những hành động đáng được thực hiện để con người có thể phát triển một cách bền vững — nhưng chắc chắn giải quyết khủng hoảng nước sạch cần nhiều hơn thế.

Nhìn một cách tổng thể, đã có nhiều nỗ lực từ phía các cơ quan quản lý của mỗi quốc gia cũng như các tổ chức liên chính phủ để kiểm soát khủng hoảng nước sạch. Gần như quốc gia nào cũng có những bộ luật cụ thể ngăn cấm việc gây ra ô nhiễm môi trường nước và có chế tài xử phạt rõ ràng. Ở một số nơi khi lượng nước dự trữ đã giảm xuống đến mức kỷ lục (như các nước châu Âu hoặc Úc), các luật hạn chế sử dụng nước cho các hoạt động không thiết yếu được thiết lập. Hay như Liên hợp Quốc thành lập riêng một tổ chức mang tên UN-Water để đối phó với những thách thức liên quan đến thiếu hụt nước sạch thông qua ba hình thức chính: tư vấn chính sách, giám sát và báo cáo, và truyền cảm hứng hành động. Mặc dù vậy, cũng giống như những giải pháp gián tiếp để khắc phục các khó khăn về mặt tự nhiên đã đề cập phía trên, những gì mà các bộ máy, hệ thống chính quyền có thể làm, dù có nhiều thuận lợi về việc buộc một số lượng lớn người phải tuân theo, thường khó thấy được kết quả tích cực ngay lập tức.

Vậy thì những giải pháp nào sẽ mang lại lợi ích tức thì hơn? Xây dựng các hệ thống khử mặn cho vùng nước lợ/ nước nhiễm mặn (như những gì World Vision làm ở Afghanistan[12] hay Oxfam thực hiện ở Somalia và Yemen[13]), đào giếng khoan, xây đập cát (qua Dự án Nước - The Water Project tại các cộng đồng ở châu Phi cận Sahara[14]), v.v. — là những ví dụ tiêu biểu cho loại giải pháp này. Những hành động cụ thể, trực tiếp này sẽ mang lại giá trị thực sự, ngay lập tức cho những con người đang cần giúp đỡ nhất. Mặc dù vậy, các giải pháp này, dù phục vụ được một nhu cầu thiết thực, vẫn chỉ là những hành động không có sức ảnh hưởng rộng, chỉ có thể mang lại lợi ích cho một số cộng đồng nhất định. Vấn đề thiếu nước sạch cũng vì thế mà chưa thể biến mất hoàn toàn nếu chỉ áp dụng những giải pháp dạng này.

Các giải pháp hướng đến mục đích nâng cao nhận thức có vẻ sẽ khắc phục được điểm yếu về phạm vi tiếp cận, và có lẽ chính vì thế mà loại hoạt động này được sử dụng thường xuyên. Có thể kể đến như chiến dịch #EveryDropCounts của Colgate[15] (khuyến khích người dùng tắt vòi nước khi đang đánh răng), hay cuộc thi làm phim ngắn về tình hình thiếu nước sạch ở Việt Nam “Tôi yêu nước sạch”[16] do Comfort phối hợp với Bộ Tài nguyên Môi trường tổ chức. Các giải pháp này thường có thể nhanh chóng tiếp cận hàng trăm, hàng ngàn người cùng lúc, nhưng tiếc rằng chúng cũng không hoàn hảo: rất khó để đo đạc được ảnh hưởng (impact) thực sự của những hành động kêu gọi này.

Không những vậy, nếu để ý kỹ, sẽ thấy rằng những chiến dịch nâng cao nhận thức thường nhắm đến người tiêu dùng với mục đích khiến họ cảm thấy tội lỗi, từ đó thay đổi hành vi của bản thân. Tuy nhiên, cách này tập trung quá nhiều vào trách nhiệm của cá nhân trong việc giải quyết vấn đề nước sạch vốn dĩ rất phức tạp. Một cá nhân tiết kiệm một vài lít nước mỗi ngày về mặt lý thuyết là tốt, nhưng cũng không thể mang lượng nước tiết kiệm được đó sang những vùng đang thiếu nước được. Ngoài ra, toàn bộ người dân trên thế giới chỉ đang dùng 12% số lượng nước sạch đang có để phục vụ mục đích sinh hoạt, thì tiết kiệm như vậy liệu có giải quyết được vấn đề thiếu nước sạch một cách triệt để không? Chắc chắn tiết kiệm nước sạch là điều nên làm, nhưng thói quen tiêu dùng của cá nhân không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến khủng hoảng nước toàn cầu, vậy nên không nên chỉ tập trung vào việc buộc cá nhân phải thay đổi mà quên đi trách nhiệm của các doanh nghiệp, các ngành công nghiệp, nông nghiệp, và cả bộ máy chính quyền của các quốc gia và thế giới.  

Có thể thấy rất nhiều ý tưởng đã đưa ra và thực hiện để giải quyết khủng hoảng nước sạch, nhưng không một loại giải pháp nào được coi là giải pháp toàn diện, chỉ tập trung dồn toàn bộ nguồn lực vào đó thì tức khắc các vấn đề về nước sẽ được giải quyết hoàn toàn. Vậy thì đâu là lối đi cho chúng ta trong vấn đề này?


5. Đâu là giải pháp triệt để cho vấn đề này?

Một cách ngắn gọn, không có một giải pháp đơn lẻ, kỳ diệu nào có thể giải quyết nhanh chóng tình trạng thiếu hụt nước sạch trên toàn thế giới. Một vấn đề phức tạp đương nhiên đòi hỏi một giải pháp phức tạp, bao gồm một loạt các hành động lớn nhỏ đánh vào các yếu tố khác nhau đang duy trì vấn đề, và cần sự góp sức của rất nhiều cá nhân, tổ chức.

Với tư cách là một người tiêu dùng, thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ nguồn nước và không làm vấn đề trầm trọng hơn là rất quan trọng, như là tiết kiệm nước trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày, đổi sang các loại thức ăn không cần dùng nhiều nước để sản xuất, lan tỏa kiến thức tới người khác về vì sao nên tiết kiệm nước và cách thức để làm được điều này, đóng góp tiền của hoặc sức lực vào các dự án phục vụ cộng đồng cho các nơi thiếu nước sạch, v.v.

Ngoài ra, không kém phần quan trọng là việc xác định trách nhiệm chính xác cho doanh nghiệp, các ngành công, nông nghiệp đối với vấn đề, để họ không có cơ hội đổ lỗi cho cá nhân và khiến những ảnh hưởng tiêu cực từ các đối tượng này bị quên lãng, từ đó tiếp tục các hoạt động gây hại của mình.

Đồng thời, với tư cách là một công dân, chúng ta cần hiểu quyền của bản thân mình trong việc tiếp cận nước sạch - Nhà nước có trách nhiệm xây dựng hệ thống hạ tầng để cung cấp đủ nước sạch cho người dân, đồng thời có những chính sách, quy định rõ ràng về bảo vệ nguồn nước trước sự khai thác quá mức và/hoặc khỏi sự ô nhiễm.

Những giải pháp trên đây phải được thực hiện đồng thời và nghiêm túc thì mới có cơ hội thực sự để giải quyết vấn đề khủng hoảng nước đang diễn ra ngày một trầm trọng hiện nay.

Nguồn tham khảo

K3: Sức khỏe & chăm sóc sức khỏe

Sức khỏe & chăm sóc sức khỏe: Quyền của mọi người


Trong xã hội hiện đại, việc chăm sóc sức khỏe đã bị biến thành một món hàng. Có nghĩa là, việc chăm sóc sức khỏe được coi như một sản phẩm có thể đổi lấy bằng tiền: một người càng có nhiều tiền thì sẽ càng có nhiều cơ hội nhận được sự chăm sóc, điều trị mà bản thân cần tới. Một số người cho rằng xu hướng này là cần thiết cho sự phát triển của chính hệ thống chăm sóc sức khỏe để cải thiện chất lượng. Cũng là công bằng nếu những người có nhiều tiền hơn thì sẽ được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng chăm sóc sức khỏe không nên được coi như một loại hàng hóa thông thường (như món đồ trang điểm, hay một chiếc iPhone), bởi một người không thể chỉ nói rằng họ không cần điều trị ung thư và tiếp tục sống như bình thường được. Chăm sóc sức khỏe quyết định sự sống còn cũng như sinh kế của con người, vậy nên không nên chỉ dựa vào khả năng chi trả của bệnh nhân mà quyết định ai sẽ được điều trị, ai không. Người dân nên được hưởng những dịch vụ chăm sóc sức khỏe theo nhu cầu chính đáng mà không phụ thuộc vào tình hình tài chính của họ.

Ý kiến của bạn là gì? Hãy cùng tìm hiểu sau đây.


1. Sức khỏe và hệ thống y tế

Sức khỏe, theo định nghĩa của WHO, là “trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần, và xã hội, không chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật.” Sức khỏe là tài nguyên để sống một cuộc đời tốt đẹp. Để ý rằng khía cạnh “tinh thần” của sức khỏe đã được công nhận trong định nghĩa này. Một trạng thái tinh thần khỏe mạnh sẽ giúp cá nhân biết được khả năng của bản thân, có thể ứng phó với sự căng thẳng thông thường, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng. Sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần có mối quan hệ mật thiết với nhau: các vấn đề về sức khỏe thể chất sẽ làm gia tăng đáng kể nguy cơ hình thành các vấn đề về sức khỏe tinh thần và ngược lại.[1]

Dù chúng ta đã đạt được rất nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, bệnh tật vẫn luôn luôn tồn tại và tình hình có xu hướng xấu đi. Trong vài thập kỷ trở lại đây, trên thế giới, số ca được chẩn đoán ung thư khi người bệnh dưới 50 tuổi ngày càng tăng cao, và sự gia tăng này khó có thể được gây ra bởi tăng cường sàng lọc.[2] Ở Việt Nam, cứ 100.000 người thì có 159 người bị chẩn đoán mắc ung thư và 106 người tử vong do ung thư.[3] Tuổi thọ của người Việt ở mức cao (trên 73 tuổi), nhưng số năm mạnh khỏe chỉ dừng lại ở 64.


2. Vì sao nhiều người chưa có được sức khỏe tốt?

Một cách khái quát, sức khỏe của một người được quyết định bởi một số yếu tố như di truyền, hành vi/thói quen của cá nhân, môi trường sống và khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

  • Di truyền: các yếu tố di truyền đóng góp vào việc xác định tuổi thọ, sức khỏe và khả năng mắc một số bệnh. Ví dụ một em bé mắc bệnh tim hay động kinh di truyền từ bố mẹ chắc chắn sẽ không thể sinh hoạt, vui chơi, học tập, và sau này là làm việc bình thường như những người khỏe mạnh khác.
  • Hành vi/thói quen: ăn uống, vận động, nghỉ ngơi, hút thuốc, uống rượu bia, và cách chúng ta đối phó với căng thẳng và thử thách trong cuộc sống đều ảnh hưởng đến sức khỏe. Một người có thói quen sống không lành mạnh (uống nhiều rượu bia, sử dụng chất kích thích, ăn uống thừa chất, v.v.) chắc chắn sẽ khó để giữ được một cơ thể khỏe mạnh.
  • Môi trường sống (vật lý và xã hội): nước sạch, không khí trong lành, môi trường làm việc lành mạnh về mặt tinh thần, không độc hại vật lý, chỗ ở, cộng đồng, đường xá an toàn đều góp phần mang lại sức khỏe tốt. Ngoài ra, văn hóa ảnh hưởng rất nhiều đến những quan điểm về vệ sinh cá nhân, dinh dưỡng, tiêm chủng, nguyên nhân bệnh (ví dụ “ma làm” hay đang đau ruột thừa), phương thức chữa bệnh (cúng bái, uống “thảo mộc” hay phẫu thuật), kế hoạch hóa gia đình, v.v.
  • Khả năng tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe: Sự chênh lệch trong khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng sẽ dẫn đến việc người này có sức khỏe tốt hơn người khác. Yếu tố này cũng là yếu tố phức tạp nhất vì nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhỏ khác, ví dụ như thu nhập (có nhiều tiền thì sẽ dễ “mua” được dịch vụ khám chữa mình mong muốn), vị trí địa lý (cơ sở y tế quá xa, khó đến được, hoặc sẽ mất rất nhiều thời gian, tiền của để di chuyển), hay chính sách của đất nước/khu vực họ sinh sống (có những nơi có bảo hiểm y tế quốc gia giúp hỗ trợ rất nhiều chi phí khám chữa bệnh VS. những nơi người bệnh phải hoàn toàn chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc phải mua bảo hiểm tư nhân tương đối đắt đỏ bên ngoài).


Những người có sức khỏe kém thường là những thành phần yếu thế trong xã hội, không có khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe một cách kịp thời. Đây là yếu tố lớn nhất trong việc gây ra những bất bình đẳng về sức khỏe. Dưới đây là một vài những con số cho thấy thực trạng đáng buồn về thiếu khả năng tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam:

  • Ít nhất một nửa dân số thế giới không tiếp cận được với các dịch vụ y tế thiết yếu.[4]
  • Có khoảng 200 triệu phụ nữ trên khắp thế giới không được tiếp cận với các phương pháp kế hoạch hóa gia đình hiệu quả, như thông tin sinh sản và dịch vụ chăm sóc, mặc dù có mong muốn sử dụng. Nếu những tài nguyên này có thể được tiếp cận dễ dàng hơn, tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn sẽ giảm, phá thai không an toàn sẽ ít xảy ra, và tử vong ở mẹ và trẻ sơ sinh có thể sẽ giảm đáng kể.[5]
  • Tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số sinh con tại nhà ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam rất cao, chiếm khoảng 40-60% tổng số các ca đẻ. Tỷ lệ số ca đẻ có sự hỗ trợ của cán bộ y tế có trình độ chuyên môn cũng chỉ dừng lại ở 49%.[6]
  • Chỉ trong khoảng 1,5 năm (năm 2021 và nửa đầu năm 2022) đã có khoảng 9.400 nhân viên y tế công lập nghỉ việc, thôi việc. Một số lý do bao gồm thu nhập thấp, áp lực công việc cao, an toàn nghề nghiệp chưa đảm bảo, thiếu thốn thuốc, vật tư y tế, ít điều kiện học tập, trau dồi kỹ năng, v.v.[7] Nguồn nhân lực để duy trì khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người nghèo đã ít nay còn ít hơn.



Có thể thấy sức khỏe một người không chỉ phụ thuộc vào sự cố gắng của bản thân họ - sẽ có những yếu tố mà họ không thể kiểm soát được ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng sức khỏe của bản thân. Không những vậy, sức khỏe của cá nhân không thực sự chỉ là vấn đề cá nhân. Không có sức khỏe tốt, trẻ em không thể đến trường và học tập, người lớn không thể làm việc và đóng góp cho gia đình, cho nền kinh tế. Một dân số khỏe mạnh, có học thức và bền bỉ trước các tác động là điều cần thiết để các quốc gia có thể cạnh tranh hiệu quả trong nền kinh tế toàn cầu. Do đó, việc đáp ứng không đủ các nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân không chỉ là bất công mà còn là lãng phí tiềm năng con người và vốn con người của một quốc gia.[8]

Vậy nên, dù đa dạng về đặc điểm, nhưng quốc gia nào cũng có hệ thống y tế và có những khoản đầu tư nhất định vào hệ thống này. Đây là nỗ lực mang tính toàn diện để đảm bảo sức khỏe của người dân được cải thiện và đạt đến tiềm năng. Một hệ thống y tế tốt là hệ thống có thể cung cấp các dịch vụ y tế có chất lượng tới tất cả mọi người dân vào thời gian và địa điểm người dân cần với mức giá có thể chi trả được.

Chúng ta vẫn luôn nghe về hệ thống chăm sóc sức khỏe miễn phí tại những nước phát triển xa xôi, có nghĩa là những người dân ở các quốc gia đó không cần phải trả thêm bất kỳ khoản phí nào để chữa trị khi không may mắc bệnh. “Miễn phí” nghe thì thật lý tưởng, nhưng nếu thực sự miễn phí, thì liệu có phải các y tá, bác sĩ trong các hệ thống này đang làm việc không công? Máy móc, trang thiết bị y tế tự dưng mà có? Đương nhiên, với một ngành nghề đặc biệt yêu cầu nhiều đầu tư về mặt tài chính như chăm sóc sức khỏe con người thì “miễn phí” thuần túy là điều không thể xảy ra. Điểm mấu chốt của vấn đề là hệ thống chăm sóc sức khỏe được chi trả bằng hình thức nào.


3. Nguồn tài chính cho hệ thống y tế

Có năm hình thức tài trợ chính cho các hệ thống y tế, bao gồm: thuế; bảo hiểm y tế quốc gia; bảo hiểm sức khỏe tư nhân; bệnh nhân tự chi trả; và các quỹ từ thiện.

Hầu hết các hệ thống y tế của các quốc gia đều là sự kết hợp của cả năm hình thức trên. Các hệ thống y tế “miễn phí” như đã đề cập ở trên thường được tài trợ bởi thuế và bảo hiểm y tế quốc gia bắt buộc, có nghĩa là thực chất là người dân đã “trả trước” cho quá trình điều trị của mình rồi nên khi họ thực sự bị bệnh, họ không cần phải trả thêm tiền để được chữa trị. Các hệ thống y tế điển hình áp dụng mô hình này là Phần Lan, Canana, và Anh.

Bên cạnh đó, tồn tại các hệ thống y tế dựa nhiều vào khả năng chi trả của bệnh nhân và bảo hiểm sức khỏe tư nhân (như Mỹ và Thụy Điển). Ở những nước như vậy, bệnh nhân sẽ trả tiền theo dịch vụ họ sử dụng (hay “dùng gì trả nấy”), hoặc có toàn quyền lựa chọn việc mua một bảo hiểm sức khỏe tư nhân phù hợp với nhu cầu của mình để phòng trừ trường hợp đau ốm.

Nếu được lựa chọn, thầy/cô sẽ chọn loại nào? “Miễn phí” nghe có vẻ hấp dẫn đấy, nhưng liệu có phải là lựa chọn tốt hơn hay không? Hãy cùng phân tích điểm mạnh và điểm yếu của mỗi loại dưới đây:

  • Chăm sóc sức khỏe toàn dân (hay “miễn phí”): hệ thống này ưu tiên cho phép tất cả mọi người tiếp cận các dịch vụ y tế. Dịch vụ này thường đã được trả qua thuế hoặc bảo hiểm y tế bắt buộc, vậy nên sẽ gần như là miễn phí cho bệnh nhân, hoặc bệnh nhân chỉ phải trả một khoản nhỏ. Mức đóng thuế và bảo hiểm y tế bắt buộc này thường phụ thuộc vào mức thu nhập.
Điểm mạnh Điểm yếu
  • Ai cũng được đảm bảo những dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà họ cần, không phân biệt giàu nghèo, không phụ thuộc vào việc họ có bao nhiêu tiền ở thời điểm bị bệnh.
  • Những người khỏe mạnh trả tiền cho hệ thống y tế có thể giúp làm cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe trở nên rẻ hơn cho những người cần nó.
  • Người nghèo sẽ có nhiều cơ hội hơn để được khám chữa bệnh vừa với túi tiền hơn, từ đó gia tăng sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe.
  • Dù có không bị ốm thì vẫn phải trả tiền, và đang trả tiền để người khác được hưởng dịch vụ.
  • Phải đóng một khoản tiền nhất định cho việc chăm sóc sức khỏe (qua thuế hoặc bảo hiểm y tế quốc gia), do đó có thể có ít lựa chọn hơn (ít tiền để tiêu hơn) cho những mảng như giáo dục, thực phẩm, hay sở thích.
  • Các phương pháp điều trị đắt tiền có thể sẽ không có sẵn để sử dụng, hoặc không nằm danh mục được chi trả.
  • Chăm sóc sức khỏe cá nhân (hay “dùng gì trả nấy”): ở hệ thống này, bệnh nhân chỉ trả tiền cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi họ cần, hoặc tự mua những loại bảo hiểm tư nhân, tự nguyện phòng trường hợp đau ốm
Điểm mạnh Điểm yếu
  • Số tiền chi cho chăm sóc sức khỏe được sử dụng trên bản thân mình và chỉ bản thân mình mà thôi.
  • Nếu khỏe mạnh, người đó sẽ có nhiều tiền hơn để chi tiêu cho những việc khác.
  • Người dân nếu có tiền có thể chọn sử dụng những phương pháp điều trị đắt tiền, tiên tiến nhất.
*Người nghèo có thể không có khả năng chi trả cho việc khám bệnh. Tình trạng bất bình đẳng về sức khỏe có thể ngày càng trầm trọng.
  • Có nguy cơ không đủ tiền chữa trị những loại bệnh nặng, tốn kém.
  • Ngay cả khi có bảo hiểm, chi phí khám chữa bệnh trong các hệ thống “dùng gì trả nấy” này thường vẫn cao hơn so với hệ thống “toàn dân” vì có ít người khỏe mạnh mua bảo hiểm hơn.  

Mỗi loại hình hệ thống y tế ở trên đều có những điểm mạnh, điểm yếu khác nhau, từ đó mà mỗi cá nhân, tùy vào xuất thân, trải nghiệm sống, và điều kiện kinh tế, có thể cảm thấy thích một hệ thống y tế nào đó hơn. Tuy nhiên, một bộ phận con người trên thế giới hoàn toàn không có sự lựa chọn nào cả: nơi họ sống không tồn tại bảo hiểm y tế quốc gia, và họ cũng không có đủ tiền để chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hay mua những hình thức bảo hiểm tư nhân khác. Việc này cần phải được nhìn nhận là một bất công không đáng có trong xã hội. Quyền được chăm sóc sức khỏe đã được công nhận là quyền cơ bản của con người, không phải một sự may mắn mà chỉ có một số người mới có cơ hội được hưởng. Khả năng tiếp cận với cách dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng không bao giờ nên phụ thuộc vào nơi một người được sinh ra, số tiền họ có hoặc chủng tộc, giới tính, tuổi tác của họ.


4. Làm thế nào để giữ gìn và cải thiện sức khỏe?

Chúng ta sẽ lần lượt đi qua các yếu tố chính ảnh hưởng đến sức khỏe con người đã đề cập đến ở trên, bao gồm di truyền, hành vi, môi trường sống, và khả năng tiếp cận.

Di truyền

Đối với di truyền - một khía cạnh tưởng chừng như khó can thiệp - thực chất giờ đây đã có rất nhiều phương pháp tầm soát để xác định các nguy cơ bệnh tật cao, từ đó điều chỉnh lối sống hoặc can thiệp sớm. Ví dụ như xét nghiệm di truyền tiền hôn nhân có thể tìm ra được bệnh lý di truyền của hai vợ chồng, sau đó lựa chọn phôi tốt và chấm dứt bệnh lý ở các đời sau. Ngoài ra, tất cả các thai phụ đều được khuyến khích thực hiện sàng lọc trước sinh để tránh nguy cơ trẻ sinh ra mắc các bất thường về nhiễm sắc thể, dị tật bẩm sinh như: hội chứng Down, hội chứng Patau, Turner, v.v.[9] Việc sàng lọc và xác định nguy cơ sớm sẽ giúp làm cải thiện sức khỏe cho con cháu chúng ta sau này.

Hành vi/thói quen

Hành vi có lẽ là việc mà một cá nhân nhiều quyền kiểm soát nhất và có thể thay đổi được nhiều nhất để hướng đến một sức khỏe tốt hơn. Ăn uống đủ chất, đa dạng hóa các loại thức ăn, hay vận động thường xuyên, không sử dụng rượu bia, thuốc lá quá độ, ngủ đủ giấc, v.v đều là những thói quen có thể xây dựng và tăng cường sức khỏe một cách nhanh chóng, rõ rệt.[10]

Không chỉ là về sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần cũng cần được bảo vệ thông qua việc trang bị những kỹ năng để ứng phó với căng thẳng và các thử thách trong cuộc sống (có thể đọc thêm về hướng dẫn ứng phó với nghịch cảnh của WHO[11])

Khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe

Đây có lẽ là yếu tố phức tạp nhất. Để tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân, có thể thấy giải pháp cần mang tính hệ thống hơn, xử lý được các yếu tố nhỏ hơn như cải thiện thu nhập, giáo dục, vị trí địa lý, hay chính sách. Đặc biệt, giải pháp đó không thể chỉ đơn thuần là “cá nhân phải cố gắng hơn” là được mà cần hỗ trợ từ những tổ chức có tiếng nói và nhiều nguồn lực thì mới có thể giải quyết một cách triệt để.

Nỗ lực nổi bật nhất và mang tính toàn cầu nhất là sự thúc đẩy để triển khai chương trình Bảo hiểm Y tế Toàn dân (Universal Health Coverage - UHC) khởi xướng bởi WHO, với mục tiêu đến năm 2030 tất cả các quốc gia trên thế giới sẽ áp dụng chương trình này. Bảo hiểm Y tế Toàn dân đảm bảo rằng mọi người được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe cần thiết mà không gặp khó khăn về tài chính. Tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu có chất lượng, giá cả phải chăng là nền tảng của UHC. Sức khỏe tinh thần cũng là một yếu tố quan trọng của loại bảo hiểm này, vì nó rất quan trọng với khả năng của con người để sống một cuộc sống có ý nghĩa.

Nhưng đương nhiên UHC có những ưu nhược điểm riêng và có thể không phù hợp với tất cả các quốc gia. Một ví dụ điển hình nhất là Mỹ - đất nước vô cùng phát triển nhưng không có bất kỳ chương trình bảo hiểm y tế quốc gia toàn dân nào. Một lý do lớn cho sự phản đối UHC ở Mỹ xuất phát từ việc UHC sẽ yêu cầu những người khỏe mạnh phải trả tiền chăm sóc sức khỏe cho những người mang bệnh, và điều này đi ngược lại các giá trị của người dân Mỹ về lựa chọn và trách nhiệm cá nhân. Ngoài ra, UHC đại diện cho sự can thiệp không cần thiết của chính phủ vào cuộc sống của công dân Mỹ, hệ thống y tế, ngành bảo hiểm y tế, và quyền của người sử dụng lao động trong việc lựa chọn loại bảo hiểm y tế phù hợp cho nhân viên của mình.

UHC cũng có thể không phù hợp với những nước quá nghèo, không có đủ ngân sách để triển khai và duy trì bảo hiểm y tế toàn dân được: cơ sở hạ tầng và nhân lực y tế thiếu thốn, số người bệnh tật nhiều, kinh tế không phát triển. Nguồn kinh phí của UHC phần lớn phụ thuộc vào việc người dân mua bảo hiểm y tế bắt buộc và/hoặc đóng thuế, nhưng với một quốc gia nghèo, người dân còn không có đủ ăn thì làm sao có thể mong chờ họ đóng góp những khoản tiền như vậy vào hệ thống y tế. Kể cả khi có các nước khác, các tổ chức khác hỗ trợ tài chính ban đầu để áp dụng UHC, việc duy trì hình thức này sẽ rất khó khăn nếu như đất nước không có cơ hội phát triển về mặt kinh tế xã hội.

Mỗi quốc gia sẽ có những đặc điểm và thách thức riêng ảnh hưởng đến khả năng triển khai UHC, nhưng tới thời điểm hiện đây, đây có vẻ là giải pháp hợp lý và khả thi nhất để cải thiện khả năng tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho toàn thế giới.


Nguồn tham khảo

K4: Động & thực vật trên Trái Đất

Bảo vệ động, thực vật: Hòa hợp để phát triển


Trong cuộc sống hiện đại, con người đã làm chủ được nguồn cung lương thực thông qua trồng trọt và chăn nuôi. Hàng chục loại thịt, cá có thể dễ dàng tìm thấy trong các chợ hoặc siêu thị, vậy nhưng con người vẫn tìm đến những loại động vật quý hiếm như một cách thể hiện đẳng cấp và sự giàu sang. Các món ăn như vi cá mập, bàn tay gấu, yến sào, thịt chân voi, v.v. vẫn được săn lùng và trả giá trên trời. Và có cầu thì ắt có cung - việc săn bắt động vật hoang dã đã trở thành một vấn nạn không chỉ ở Việt Nam mà còn là rất nhiều nơi khác trên thế giới. Có nhiều loài thú quý hiếm đã bị săn bắt đến mức tuyệt chủng chỉ để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng của con người.

Không chỉ động vật quý hiếm mới là nạn nhân duy nhất của con ngườì. Để phát triển kinh tế, xã hội, con người đang khai thác tài nguyên rừng một cách thái quá, dẫn đến việc diện tích rừng đang sụt giảm với tốc độ đáng báo động. Con người đôi khi không nhận thức được rằng bản thân mình là một phần của một hệ sinh thái, có nghĩa cuộc sống của con người phụ thuộc rất nhiều vào các loài động, thực vật xung quanh chúng ta, và chính việc làm tổn hại đến các loài khác đang trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con người.


1. Hệ sinh thái là gì?

Hệ sinh thái là một quần thể bao gồm một môi trường cụ thể và các sinh vật sống trong đó. Luôn luôn có một số lượng lớn các loài khác nhau trong cùng một hệ sinh thái, và có rất nhiều các hệ sinh thái khác nhau trên Trái Đất.

Trong tự nhiên, mọi vật đều liên kết với nhau. Các sinh vật tương tác với nhau và với môi trường của chúng theo những cách khác nhau để duy trì dòng thức ăn, năng lượng, cũng như chu trình dinh dưỡng. Hệ sinh thái bao gồm cả sinh vật sống và các yếu tố phi sinh học (ví dụ như nhiệt độ, ánh sáng, nước).


Dưới đây là ví dụ về một hệ sinh thái ở sa mạc:[1]
He sinh thai.png


Ở bối cảnh thành thị nơi diện tích vùng xanh hạn chế, số lượng động vật tương đối thấp, hệ sinh thái tự nhiên dù không đa dạng như trên nhưng vẫn tồn tại:

  • Mặt trời vẫn cho cây cối năng lượng và điều khiển vòng tuần hoàn của nước;
  • Ong, bướm thụ phấn cho cây để ra cây ra hoa, quả;
  • Con người tiêu thụ hoa, quả và gây trồng;
  • Chim làm tổ trên cây, ăn quả và gieo rắc hạt;
  • Cây nhả ra oxy và hấp thụ khí carbon cho con người và động vật;
  • v.v.


2. Con người phụ thuộc vào động, thực vật như thế nào?

Ví dụ vừa rồi cho thấy dù động thực vật không thực sự nằm trong mối quan tâm hàng ngày của người dân đô thị, trên thực tế, không khí ta thở, nước ta uống, thực phẩm ta ăn hàng ngày đều phụ thuộc vào những loài khác, theo cách này hay cách khác. Một ví dụ vô cùng rõ ràng là không có thực vật thì sẽ không có oxy, và không có ong thụ phấn thì sẽ không có quả hoặc hạt.

Hay ít rõ ràng hơn: các rạn san hô và đầm lầy ngập mặn cung cấp cho con người sống dọc bờ biển sự bảo vệ quý giá khỏi lốc xoáy và sóng thần, và cây cối có thể hấp thụ ô nhiễm không khí trong các khu vực đô thị.

Một số khác lại khá kỳ lạ: rùa nhiệt đới và khỉ nhện nghe thì có vẻ không liên quan lắm đến việc duy trì khí hậu ổn định. Nhưng những rặng cây thân gỗ cứng, mọc dày đặc có hiệu quả nhất trong việc loại bỏ carbon dioxide khỏi khí quyển thì lại phụ thuộc vào những loài động vật ăn trái cây này để phát tán hạt của cây.

Khi nghiên cứu các hệ sinh thái, các nhà khoa học đều tìm thấy vô số những tương tác như vậy - tất cả đều được mài giũa qua hàng triệu năm tiến hóa. Nếu không bị làm tổn hại, điều này sẽ tạo ra một hệ thống lành mạnh, cân bằng tinh vi, góp phần tạo nên một hành tinh bền vững.


3. Nhiều loài động, thực vật đang biến mất: Như thế nào và vì sao?

Tốc độ tuyệt chủng của các loài hiện nay được cho là cao hơn khoảng 1000 lần so với trước khi con người thống trị hành tinh, thậm chí có thể nhanh hơn so với tổn thất sau khi một thiên thạch khổng lồ quét sạch loài khủng long 65 triệu năm về trước.[2] Theo một số nhà khoa học, sự kiện tuyệt chủng hàng loạt thứ sáu trong lịch sử Trái Đất đã bắt đầu.[3]Con người cùng với sự gia tăng dân số và các hoạt động kinh tế - xã hội chính là nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm của sự đa dạng trong các hệ sinh thái. Các khu vực hoang đã bị san bằng để lấy đất cho nông nghiệp, nhà ở, và các khu công nghiệp. Việc chặt phá rừng thường là bước đầu, chính vì vậy mà tỷ lệ bề mặt trái đất được bao phủ bởi rừng vẫn đang sụt giảm nghiêm trọng: từ 10.6 tỷ hecta 10,000 năm trước, giờ đây chúng ta chỉ còn xấp xỉ một nửa (4.1 tỷ hecta) — hay nói một cách dễ hiểu, chúng ta đang mất rừng với tốc độ khoảng 12.000m2 mỗi phút, tương đương với diện tích của 27 sân bóng đá.
Tỉ lệ tuyệt chủng của một số nhóm động & thực vật trên Trái Đất[4]

Săn trộm và săn bắt động vật một cách bừa bãi cũng là một tác nhân quan trọng khác. Hơn 300 loài động vật có vú, từ tinh tinh, hà mã, đến dơi, đang bị săn bắt đến mức tuyệt chủng. Không chỉ động vật trên cạn (nơi con người sinh sống chủ yếu) mới đang gặp nguy hiểm, các loài sinh vật sống dưới nước cũng bị đe dọa. Việc khai thác thủy hải sản tràn lan cũng khiến số lượng những loài sinh vật này sụt giảm đáng kể. Hiện giờ hơn một nửa đại dương trên Trái Đất đã trở thành những địa điểm khai thác thủy hải sản công nghiệp.[5]


Ô nhiễm môi trường cũng là một nguyên nhân lớn dẫn tới suy giảm đa dạng sinh vật. Môi trường sống bị ảnh hưởng nặng nề nhất có lẽ là sông và hồ, với quần thể động vật nước ngọt ở những nơi này giảm 81% kể từ năm 1970. Ở biển, các loài cá voi và cá heo bị đe dọa nghiêm trọng bởi các chất ô nhiễm công nghiệp đang tồn tại dưới biển. Giao thương toàn cầu khiến số lượng động vật lưỡng cư sụt giảm nghiêm trọng, nguyên nhân là do bệnh nấm lây lan khắp thế giới do hoạt động buôn bán thú cưng. Các loài xâm hại (đặc biệt là chuột) cũng qua đó mà có cơ hội phát trên khắp hành tinh.

Một loài động vật (hoặc thực vật) bị đe dọa không phải là vấn đề duy nhất. Chỉ cần mất đi một loài động vật hoặc thực vật trong một hệ sinh thái, các quá trình sinh thái quan trọng có thể bị phá vỡ, gây nguy hại đến khả năng sống sót của những loài khác. Tới một mức nào đó, hệ sinh thái đó sẽ sụp đổ.

Một ví dụ cho điều này: Chim kền kền đang bị đe dọa do các hoạt động của con người như xáo trộn nơi làm tổ, săn bắn, và đặc biệt là nhiễm độc.[6] Kền kền rất quan trọng trong hệ sinh thái với vai trò là “thợ dọn dẹp” tự nhiên, ăn xác các động vật khác, từ đó ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh và ruồi nhặng. Do vậy, nếu kền kền biến mất, chất lượng cuộc sống của chúng ta và thế hệ tương lai rất có thể sẽ bị tổn hại. Nhưng, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên (với hệ quả là sự biến mất của nhiều loài động, thực vật) là khó có thể tránh khỏi nếu số lượng con người trên Trái Đất vẫn tăng và những nhu cầu tồn tại và phát triển vẫn ở đó. Liệu có công bằng không để nói rằng sự phát triển của con người là tối quan trọng, và việc ảnh hưởng đến môi trường là chuyện không thể tránh khỏi, vậy nên không cần phải quá quan tâm về vấn đề đó?

Kền kền bên cạnh xác của một động vật

4. Con người VS. Thiên nhiên

Chắc chắn rằng để tiếp tục phát triển, con người sẽ phải tiếp tục tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đây là điều khó có thể tránh được. Tuy nhiên, nếu nhân danh “phát triển” để tàn phá, vắt kiệt tài nguyên trên Trái Đất, con người có thể còn chẳng có cơ hội để tồn tại chứ không nói gì đến phát triển. Con người cũng nằm trong một hệ sinh thái và bị tác động bởi bất kỳ thay đổi nào trong hệ sinh thái đó.

Một ví dụ điển hình là việc mất rừng. Dù mất rừng có thể xảy ra do các hiện tượng tự nhiên, 80% tình trạng mất rừng là do nông nghiệp, chăn thả gia súc diện rộng và khai thác gỗ để lấy nguyên liệu. Mất rừng khiến cho một lượng lớn khí nhà kính được thải vào khí quyển[7], từ đó làm cho chất lượng không khí chúng ta hít thở hàng ngày tệ hơn.Không những vậy, mất rừng cũng gây mất khả năng điều tiết nước ở thượng nguồn khi xảy ra mưa lớn, trở thành nguyên nhân khiến mưa lũ, lũ lụt nghiêm trọng hơn[8], ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của con người. Ngoài ra, mất rừng buộc động vật phải di cư (vì chúng mất nơi ở), và điều này làm gia tăng đáng kể cơ hội tiếp xúc giữa con người với động vật hoang dã, từ đó dẫn đến sự lây lan của các bệnh lây truyền từ động vật sang người.

Tóm lại việc phát triển mà hoàn toàn không để tâm đến những tác động tiêu cực lên môi trường xung quanh là lợi bất cập hại: nó có thể mang lại lợi ích ngắn hạn cho con người, nhưng sẽ để lại những hậu quả về lâu về dài cho bản thân cũng như thế hệ con cháu thừa hưởng Trái Đất này lại từ chúng ta.


5. Giải pháp nào để bảo vệ động & thực vật trên Trái Đất?

Để bảo vệ động & thực vật một cách hiệu quả, rất nhiều giải pháp với quy mô khác nhau đã được thực hiện hoặc được đề xướng, ủng hộ.

Ở mức độ vĩ mô

Đối với cấp quốc gia, rất nhiều chính phủ các nước đã có những bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ động, thực vật. Một số biện pháp có thể kể đến như thành lập các khu vực bảo tồn, vườn quốc gia để bảo vệ môi trường sống tự nhiên, kiểm soát việc buôn bán các sản phẩm từ động vật, và áp dụng lệnh cấm một số hoạt động săn bắn (xem thêm về các hành động cụ thể của một số nước như Mỹ, Úc, Ấn Độ, Canada[9]).

Các tổ chức phi chính phủ hay phi lợi nhuận như Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới (World Wildlife Fund - WWF), Tổ chức Bảo tồn Quốc tế (Conservation International), Hiệp hội Bảo tồn Động vật Hoang dã (Wildlife Conservation Society), và Liên Hợp Quốc (United Nations) cũng đang hỗ trợ các nỗ lực bảo tồn động vật và môi trường sống trên nhiều mặt trận khác nhau, ví dụ như:

  • Làm việc với chính phủ các nước để nhằm thiết lập và bảo vệ các vùng công cộng, như là công viên quốc gia hoặc nơi trú ẩn của động vật hoang dã.
  • Giúp viết luật, chẳng hạn như Đạo luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng (Endangered Species Act - ESA) nắm 1973 ở Hoa Kỳ, để bảo vệ nhiều loài khác nhau.
  • Phối hợp với cơ quan thực thi pháp luật để truy tố các tội phạm về động vật hoang dã, như săn bắn hoặc buôn bán trái phép.
  • Quảng bá về tầm quan trọng của đa dạng sinh học với việc nuôi sống lượng dân số ngày càng tăng, và cùng lúc đó bảo tồn các loài và môi trường sống hiện có.[10]

Dù những nỗ lực vĩ mô này đem lại kết quả tốt và rất đáng ghi nhận, trách nhiệm của cá nhân là không thể chối bỏ trong công cuộc bảo tồn động, thực vật trên Trái Đất vì suy cho cùng, nhu cầu của cá nhân là khởi nguồn của vấn đề. Vậy mỗi người chúng ta có thể làm gì?


Ở mức độ vi mô

Có rất nhiều chiến dịch nâng cao nhận thức hướng đến việc thay đổi thói quen tiêu dùng, ví dụ như không tiêu thụ các sản phẩm làm từ động vật có nguy cơ tuyệt chủng, hay chỉ tiêu thụ những sản phẩm mà chúng ta thực sự cần và thân thiện với môi trường. Tái chế, tái sử dụng là một cách khác được tuyên truyền thường xuyên. Một ví dụ điển hình là sở thu Minnesota khuyến khích mọi người tái chế điện thoại di động để giảm nhu cầu về khoáng chất coltan, một chất thường được khai thác từ môi trường sống của khỉ đột vùng đất thấp.[11]

Ngoài ra, nhiều cá nhân đã quyên góp tiền của cho các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn, hoặc thậm chí là nhận nuôi tượng trưng một loài động vật đang có nguy cơ tuyệt chủng (ví dụ WWF - Symbolic Species Adoptions[12]). Nếu muốn đóng góp một cách trực tiếp hơn, cá nhân cũng có thể tham gia các hoạt động như tình nguyện trong các sở thú, làm sạch bãi biển, trồng rừng, hay giải cứu động vật hoang dã. Các cơ hội như vậy thường rất nhiều và dễ dàng tìm thấy.[13]

Một cách khác để đóng góp vào bảo vệ động, thực vật là chỉ tham gia vào các cơ hội du lịch sinh thái được quản lý đúng luật, đúng đạo đức để ngăn ngừa sự xáo trộn không cần thiết cho cuộc sống của chúng. Các khu bảo tồn được điều hành tốt sẽ giúp các hệ sinh thái phát triển khỏe mạnh, từ đó cải thiện sức khỏe của con người.[14]


Nguồn tham khảo

K5: Quy tắc xã hội

Quy tắc xã hội: Nền tảng của một xã hội ổn định


Dù ở bất kỳ đâu, sẽ luôn có những quy định, nguyên tắc mà chúng ta cần tuân thủ: không được vượt đèn đỏ, phải đi học/đi làm đúng giờ, xếp hàng chờ đến lượt, dọn chất thải cho thú cưng nếu chúng đi vệ sinh nơi công cộng, nói cảm ơn khi ai đó giữ cửa cho mình, v.v. Những quy tắc này xuất hiện ở khắp mọi nơi, định hướng và giới hạn những hành vi của cá nhân khi sống trong một tập thể, một cộng đồng. Đôi lúc chúng có thể tạo cảm giác kìm kẹp khi chúng ta không thể tự do làm theo ý của mình, tuy nhiên để tương tác giữa mọi người diễn ra một cách suôn sẻ, hay nói rộng hơn là duy trì được một xã hội ổn định, trật tự, những quy tắc xã hội là một yếu tố không thể thiếu.

Vậy cụ thể quy tắc xã hội là gì? Quy tắc xã hội có ý nghĩa thế nào đối với con người? Có phải cứ là quy tắc đã được công nhận thì luôn đúng? Hãy cùng tìm hiểu sau đây.


1. Quy tắc xã hội là gì?

Quy tắc xã hội là những tiêu chuẩn về hành vi mà cá nhân với tư cách là thành viên của một cộng đồng phải tuân theo. Quy tắc xã hội có thể được phân chia sơ lược thành 2 loại: “thành văn” và “bất thành văn”.

  • Thành văn”: là những quy tắc được hệ thống hóa một cách chính thức, ghi chép lại thành văn bản chính thống. Một số ví dụ cho loại quy tắc này là luật pháp của một nước, nội quy của một trường học, hay quy định của một công ty. Các quy tắc này thường có cơ chế phạt rõ ràng cho các trường hợp vi phạm (cảnh cáo, phạt tiền, phạt tù, sa thải/đuổi học, v.v.).
  • Bất thành văn”: là những quy tắc “ngầm” được đồng ý, chấp thuận giữa các cá nhân trong một nhóm người, một cộng đồng với nhau. Đó có thể là những thói quen chung từ lâu đã thành nếp, một cá nhân làm vì nghĩ rằng những người khác cũng đang làm vậy (ví dụ như vỗ tay sau một màn biểu diễn; hay đàn ông ngồi mâm trên, phụ nữ ngồi mâm dưới), hoặc những gì chúng ta tin rằng những người khác tán thành và mong đợi chúng ta làm (hay không làm) (chẳng hạn như đi làm phải đi sớm, về muộn; hoặc không nên chen hàng). Nếu tuân thủ đúng các quy tắc này, cá nhân sẽ được những người xung quanh chấp nhận, tôn trọng, thậm chí là ca ngợi. Nếu vi phạm, họ thường sẽ nhận về sự dè bỉu, coi thường, đánh giá.[1]

Các quy tắc không thành văn có khả năng tác động đến hành vi của con người không kém gì các quy tắc đã được hệ thống hóa thành luật lệ, nội quy. Thậm chí các chuẩn mực “ngầm” này đôi khi còn gây sức ép lớn hơn lên lựa chọn hành vi của một cá nhân. Hai loại quy tắc này tồn tại và hoạt động song song, từ đó duy trì tính trật tự và hòa hợp của xã hội.


2. Các quy tắc “thành văn” và “không thành văn” có mối quan hệ với nhau không?

Những quy tắc thành văn hoặc bất thành văn cũng có thể tác động qua lại lẫn nhau. Luật pháp, quy định có thể được hình thành dựa trên những gì vốn đã được coi là đúng, đã được thực hiện trong một cộng đồng. Ví dụ, trước năm 2018, ở Saudi Arabia, phụ nữ không được phép lái xe - nếu lái xe họ sẽ đối mặt với nguy cơ bị phạt tiền và bắt giữ. Luật lệ ấy bắt nguồn từ chuẩn mực tôn giáo của nước này về việc phụ nữ cần luôn luôn có đàn ông đi cùng khi ra ngoài, và nếu như vậy thì phụ nữ cũng không cần phải lái xe vì lúc nào cũng có một người đàn ông đưa họ đi rồi.[2] Ảnh hưởng từ chuẩn mực bất thành văn lên luật pháp, quy định cụ thể thường rất mạnh vì phần lớn các quy tắc “cứng” phản ánh giá trị, niềm tin, và lề thói của một xã hội.

Đôi khi luật pháp cũng có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự thay đổi các chuẩn mực xã hội bằng cách biến một số hành vi trở nên bắt buộc, từ đó dần dần thay đổi nhận thức về tính đúng đắn của một số cách cư xử nhất định. Việt Nam đã từng có luật bắt buộc phải đeo khẩu trang nơi công cộng, nhưng giờ đây dù không còn luật nữa, nhiều người vẫn giữ thói quen đeo khẩu trang nơi đông người hoặc khi có biểu hiện bệnh hô hấp dễ lây truyền. Tất nhiên, luật pháp, quy định hiếm khi thay đổi được chuẩn mực nếu không có sự tác động đồng thời từ giáo dục nhận thức, tuyên truyền, áp lực xã hội (bạn bè, người thân, người xung quanh), và các hình thức thuyết phục khác.[3]


3. Vì sao quy tắc lại quan trọng?

Quy tắc xã hội được tạo ra nhằm mục đích giúp cá nhân lựa chọn hành vi phù hợp, từ đó thiết lập sự ổn định, hài hòa trong bối cảnh, môi trường tương ứng. Khi quy tắc xã hội không được tôn trọng và thực hiện đúng, những vấn đề chắc chắn sẽ nảy sinh.

Dưới đây là một số lý do vì sao xã hội loài người bắt buộc phải có quy tắc:

  • Con người luôn sống cùng nhau, do đó cần có một tiêu chuẩn chung: mọi người cần một “khung tham chiếu” để biết được điều gì là đúng, điều gì là sai. Quy tắc cho phép chúng ta tự kiểm soát hành động của mình, đồng thời cho chúng ta biết những người xung quanh đang mong đợi điều gì. Không có những quy tắc này, chúng ta khó có thể chung sống một cách hòa bình với nhau.[4] Một số ví dụ bao gồm giữ lời hứa/ giữ chữ tín, không tiết lộ bí mật của người khác khi không có sự đồng ý, hay không gây sự, sử dụng bạo lực vô cớ.
  • Quy tắc giúp chúng ta an toàn và khỏe mạnh: các luật lệ về an toàn giao thông là những ví dụ tiêu biểu cho điều này. Không vượt đèn đỏ, đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, không uống rượu bia khi lái xe, v.v. tất cả đều hướng đến việc bảo vệ bản thân hoặc người khác khỏi tổn thương không đáng có. Một số quy tắc “bất thành văn” mà chúng ta vẫn luôn áp dụng để đảm bảo an toàn là: trẻ con đi đâu phải xin phép người lớn; che mũi, miệng khi ho hoặc hắt hơi; hoặc quan sát kỹ hai phía trước khi sang đường.  
  • Quy tắc đảm bảo mọi người được đối xử công bằng, đặc biệt là bảo vệ những nhóm người yếu thế. Một số nhóm người yếu thế bao gồm người nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, phụ nữ nghèo, v.v. Những người này được xếp vào nhóm người yếu thế vì họ thiếu nguồn lực và cơ hội để tiếp cận với Một số ví dụ bao gồm nội quy về đi học đúng giờ (vì đó là tôn trọng thời gian của thầy cô và các bạn khác trong lớp), mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nhường em nhỏ, hay đàn ông nên làm các việc nặng nhọc về mặt thể chất giúp phụ nữ.


5. Sự đa dạng về quy tắc xã hội

Con người có thể tạo ra những quy tắc xã hội để phù hợp với bối cảnh, văn hóa của một địa điểm, một cộng đồng nhất định. Đó có nghĩa là đối với cùng một vấn đề nhưng hai quốc gia, hai nền văn hóa lại có thể có thái độ hoặc cách tiếp cận hoàn toàn khác nhau. Ví dụ về mặt luật pháp, độ tuổi tối thiểu được sử dụng bia rượu là Việt Nam là 18, tuy nhiên ở Nhật Bản độ tuổi này là 20. Một ví dụ khác là phần lớn các nước trên thế giới đều quy định xe lưu thông bên phải, vẫn có khoảng 76 nước áp dụng lái xe bên trái.[5] Hay về mặt những quy tắc “ngầm” hơn một chút: ở phần lớn các nước châu Á, khi bước vào nhà, khách sẽ được mong đợi để bỏ dép ở ngoài, trong khi các gia đình ở Mỹ hoàn toàn chấp nhận chuyện mang giày trong nhà. Sự khác biệt trong cách tiếp cận/ thái độ này chỉ đơn thuần là sự đa dạng trong chuẩn mực và lối suy nghĩ, không có đúng - sai và cũng không gây ra vấn đề gì lớn đến sự ổn định của xã hội nói chung.


6. Có phải quy tắc xã hội lúc nào cũng đúng?

Quy tắc được tạo ra bởi con người, mà con người thì không bao giờ hoàn hảo, vậy nên quy tắc không có tính tuyệt đối.

Trước tiên hết, đã có rất nhiều trường hợp quy tắc xã hội thay đổi theo thời gian: một quy tắc trong quá khứ được coi là phù hợp nhưng lại không được chấp nhận ở thời điểm hiện tại, hoặc ngược lại. Sự “tiến hóa” của các quy tắc xã hội thường đến từ các khám phá khoa học, công nghệ mới được phát triển, và hiểu biết của chúng ta về chính con người cũng như thế giới xung quanh. Chẳng hạn như phụ nữ từng bị cấm tham gia các việc lớn trong gia đình, nhưng ngày nay quy tắc đó không còn phổ biến nữa, thậm chí việc phụ nữ làm chủ gia đình không phải là chuyện hiếm. Hoặc như Trung Quốc từng coi việc sinh nhiều con là điều không tốt (vậy nên áp dụng chính sách một con để kiểm soát dân số), nhưng những năm gần lại đây chính phủ nước này đã phải phải bãi bỏ luật ấy, thay vào đó là khuyến khích, vận động người dân sinh thêm con do đối mặt với tình trạng già hóa dân số và thiếu hụt lực lượng lao động.

Tuy nhiên cũng có những quy tắc xã hội chỉ đơn thuần là sai trái, không phụ thuộc vào thời điểm nào nó được áp dụng và cần được loại bỏ. Có thể kể đến như tảo hôn, chế độ đa thê, và trọng nam khinh nữ. Những quy tắc này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, sức khỏe thể chất và tinh thần, khả năng tiếp cận cơ hội của một số nhóm người yếu thế. Chỉ khi chúng được loại bỏ, xã hội mới có thể trở nên công bằng và văn minh hơn.

Tương tự, có những quy tắc không hướng đến sự công bằng chung, mà chỉ đem lại lợi ích cho một số nhóm nhất định. Đơn cử là luật lệ trước đây về việc con gái không được đi học. Thời xưa, xã hội theo chế độ phụ hệ, nghĩa là đàn ông sẽ có quyền lực hơn cả. Nếu phụ nữ cũng được đi học, nghĩa là họ sẽ có tri thức, sẽ có nhiều cơ hội hơn trong cuộc sống, đồng nghĩa với việc họ không cần phải phụ thuộc vào đàn ông nữa. Do đó, không cho đi học cũng là một cách để xã hội xưa kìm hãm khả năng của phụ nữ, để từ đó củng cố quyền lực của nam giới trong gia đình cũng như trong xã hội.

Một ví dụ khác là “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” - thể hiện sự áp đặt mà phụ huynh có thể áp dụng trên con trẻ. Đồng ý rằng cha mẹ thường có nhiều hiểu biết, trải nghiệm hơn, biết được cái gì là tốt, nhưng việc tước đi quyền quyết định của con cái cho chính những khía cạnh trong cuộc đời của họ là một việc khó có thể chấp nhận được. Điển hình là hôn nhân - hôn nhân sắp đặt từng là hành động để củng cố quyền lực, của cải, địa vị, thay vì xuất phát từ tình yêu của đôi trai gái, tức có nghĩa cuộc hôn nhân này chắc chắn sẽ đem lại lợi ích cho gia đình, dòng họ, còn quyền lợi chính đáng của đôi trẻ (được kết hôn với người mình yêu) sẽ không bao giờ là ưu tiên hàng đầu.

Một số quy tắc khác thì đặc biệt hơn, nằm ở một vùng xám mà khó có thể ấn định đúng - sai: về cơ bản quy tắc được đặt ra là hợp lý, nhưng trong một vài trường hợp nó sẽ gây ra một số vấn đề nhất định. Tham khảo câu chuyện “Bắt trói kẻ trộm bị khởi tố” dưới đây:

K. đột nhập vào nhà anh Trình để ăn trộm và bị anh Trình bắt được. Lúc đó là khoảng 2h30 sáng, anh Trình gọi cho ông Luyến, trưởng ấp, để báo vụ việc, nhưng ông Luyến không nghe máy. Anh Trình cũng không thể dẫn đối tượng K. lên cơ quan chức năng ngay được vì muốn đi phải qua phà, mà đêm khuya phà không hoạt động. Anh Trình sau đó trói, giữ K. lại. Đến 4 giờ 40 sáng, Trình tiếp tục gọi điện thoại báo cho ông Luyến trưởng ấp, lần này thì ông đến đưa tên trộm về trụ sở ấp làm việc. Tòa tuyên bị cáo Trình phạm tội giữ người trái pháp luật và phạt sáu tháng cải tạo không giam giữ.[6]

Luật pháp Việt Nam nghiêm cấm hành vi giữ người trái phép, và luật này hoàn toàn có lý để tránh những trường hợp người không có thẩm quyền vi phạm quyền tự do của người khác (ví dụ như vụ án nhóm thanh niên đòi nợ thuê đã khống chế, bắt giữ con nợ, đánh đập để ép vợ con nạn nhân viết giấy nợ tiền[7]). Tuy nhiên, trong câu chuyện vừa rồi, anh Trình ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nam: không bắt giữ kẻ trộm thì sợ trộm chạy mất, bắt giữ thì vi phạm pháp luật. Lựa chọn của anh Trình (trói, giữ K. trong khoảng thời gian chờ liên lạc được với người có thẩm quyền) đã khiến anh bị khởi tố và xét xử. Có thể thấy mặc dù luật cấm giữ người trái phép có chức năng bảo vệ quyền lợi của con người nói chung, vẫn tồn tại những tình huống ngoại lệ đặc biệt mà nếu chỉ áp dụng một cách cứng nhắc luật này, ai đó sẽ chịu thiệt thòi.


Một ví dụ khác về “vùng xám” là việc làm của hiệp sĩ đường phố - thành viên của những nhóm phòng chống tội phạm tại Việt Nam.

Những người này không phải thuộc lực lượng chuyên nghiệp, chuyên trách trong phòng chống tội phạm nhưng vẫn tham gia bắt cướp. Hành động của họ xuất phát từ niềm tin (hay quy tắc) là mọi người cần bảo vệ nhau, nên giúp đỡ lẫn nhau, “hành hiệp trượng nghĩa” là điều cần thiết. Nhìn chung, niềm tin này không sai, vì nếu xã hội này chỉ ai biết người đấy, không có trách nhiệm thì từ chối không làm thì chẳng còn có bất kỳ sự gắn kết nào giữa người với người nữa. Tuy nhiên, tinh thần có quả cảm, làm đúng quy tắc xã hội về giúp người đi chăng nữa, không thể chối bỏ việc các hiệp sĩ hiện tại không được trang bị chuyên môn nghiệp vụ, không được huấn luyện bắt cướp, cũng không có vũ khí và các công cụ như công an. Chính vì thế mà việc hiệp sĩ đường phố bị thương, thậm chí là mất mạng khi tội phạm chống trả vẫn xảy ra. Không những vậy, hiệp sĩ không phải là cơ quan chức năng, không có chính danh và không có thẩm quyền theo dõi, bắt giữ người, do đó có thể vi phạm pháp luật trong khi đang cố gắng làm điều đúng đắn.[8] Mô hình “hiệp sĩ đường phố” cũng vì thế mà nhận được ý kiến trái chiều - người cho rằng họ là những anh hùng cần được tuyên dương, khuyến khích; một số khác lại mong muốn loại bỏ mô hình này.

Những ví dụ vừa rồi là minh chứng rõ nét cho việc quy tắc không phải lúc nào cũng đúng, từ các quy tắc thay đổi theo thời gian, những quy tắc sai trái, thiếu công bằng cần được loại bỏ, đến  các quy tắc nằm trong “vùng xám” đòi hỏi sự cân nhắc cẩn thận khi muốn áp dụng. Nhìn chung con người luôn cần quy tắc xã hội để duy trì sự ổn định và phát triển, nhưng trong một số trường hợp nhỏ lẻ, khi một quy tắc được áp dụng, cần phải cân nhắc một cách kỹ lưỡng những yếu tố xung quanh để đảm bảo quy tắc thực sự là vì lợi ích chung của con người.


7. Làm thế nào với các quy tắc xã hội không đúng đắn, hoặc không còn phù hợp?

Bước đầu tiên là phải loại bỏ được suy nghĩ quy tắc là không thể thay đổi được. Giống như việc cá nhân có thể nghĩ mình quá bé nhỏ để có thể ảnh hưởng đến hệ thống lập pháp của nước nhà, việc biên soạn nội quy, quy định trong các tổ chức, hay khó hơn là thay đổi các chuẩn mực xã hội, chuẩn mực đạo đức mà đã được duy trì qua rất nhiều thế hệ. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng những điều này hoàn toàn có thể, dù cho nó chưa bao giờ là dễ dàng: từ chuyện người da đen phải biểu tình, phải đấu tranh rất nhiều năm để có quyền bình đẳng với người da trắng, đến người lao động phải đứng lên đòi hỏi quyền lợi để chỉ làm việc 8 tiếng một ngày, hay phụ nữ đang ngày càng chứng tỏ vị trí của mình trong xã hội, phụ nữ làm trụ cột gia đình cũng không còn là việc hiếm. Sự biến mất của những quy tắc xã hội không còn phù hợp sẽ là tiền đề cho những quy tắc thích hợp hơn cho con người, giúp cá nhân cảm thấy hạnh phúc, hài lòng trong xã hội mình sống, từ đó duy trì sự ổn định và trật tự.

Sự thay đổi, chỉnh sửa, hay là loại bỏ những quy tắc xã hội là một công việc thử thách, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của nhiều bên khác nhau, bao gồm chính phủ, các tổ chức phi chính phủ/phi lợi nhuận, và cả cá nhân mỗi người.

Vai trò của chính phủ

Đơn vị có trách nhiệm nhiều nhất trong việc thiết lập và duy trì các quy tắc xã hội có lẽ là chính phủ. Chính phủ không những kiểm soát quá trình lập pháp và hành pháp mà còn quản lý các cơ quan, doanh nghiệp để đảm bảo họ không áp dụng những quy định vi phạm quyền con người hoặc pháp luật. Ví dụ, vào năm 2019, luật Lao động Việt Nam đã bổ sung quy định cấm người sử dụng lao động ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động, hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định.[9] Hoặc có nhiều nhà nước thay đổi chính sách về thuế để kích cầu tiêu dùng, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh để sớm phục hồi kinh tế sau đại dịch.[10]

Không những vậy, chính phủ còn có tiếng nói và nguồn lực rất lớn trong việc tuyên truyền, vận động, giáo dục dân chúng, từ đó tác động trực tiếp lên suy nghĩ, niềm tin, quan điểm của người dân, kể cả trong trường hợp đó là những quy tắc bất thành văn như là tiết kiệm điện, nước hay “lá lành đùm lá rách.”

Vai trò của các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận

Dù chính phủ là bên có nhiều quyền lực nhất trong việc thay đổi quy tắc xã hội, chính phủ thường phải dàn trải nguồn lực của mình cho rất nhiều vấn đề khác nhau, và để áp dụng những thay đổi này cần rất nhiều thời gian, thủ tục. Do đó, các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận sẽ hỗ trợ quá trình này theo nhiều cách khác nhau, ví dụ như nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân, thực hiện nghiên cứu và tư vấn chính sách, hoặc phát động biểu tình đòi quyền lợi. Các tổ chức này thường thu hút được sự chú ý của rất nhiều cá nhân, và những nỗ lực của họ thường mang lại nhiều kết quả tích cực nhờ vào nguồn lực dồi dào và cách thức tổ chức bài bản.

Vai trò của các cá nhân

Nói như vậy không có nghĩa cá nhân không thể đóng góp vào việc thay đổi các quy tắc xã hội. Về mặt luật pháp hay quy định chính thống, cá nhân có quyền đòi hỏi được tham gia góp ý, xây dựng nội quy, chính sách, pháp luật, và cá nhân nên tham gia quá trình góp ý này khi có cơ hội (ví dụ như chính phủ Việt Nam có một trang web để lấy ý kiến nhân dân về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật[11]). Đối với những chuẩn mực xã hội, chuẩn mực đạo đức cần phải thay đổi, bản thân cá nhân cần phải làm gương, sau đó tuyên truyền, giáo dục những người xung quanh về lý do vì sao những thay đổi đó cần phải được diễn ra.

Cần nhấn mạnh rằng, đối với thay đổi quy tắc xã hội, điều quan trọng nhất vẫn là thay đổi nhận thức của mọi người chứ không phải chỉ đơn thuần là áp dụng thưởng/phạt cho một quy tắc nào đó. Ví dụ, dù đã có luật về việc cấm tiết lộ giới tính thai nhi thông qua siêu âm, nhưng tình trạng này vẫn diễn ra, không những thế mọi người còn coi đó chuyện bình thường, thậm chí những phòng khám từ chối cung cấp thông tin này chắc chắn sẽ không có nhiều khách lui tới. Hay nếu như việc bắt nạt học đường vẫn chỉ được coi là những trò đùa, hành vi vô hại của trẻ con, thì chắc chắn hiện tượng đó sẽ không thể biến mất dù có vẽ bao nhiêu tranh cổ động, tổ chức bao nhiêu chiến dịch, chương trình phòng chống bạo lực học đường đi chăng nữa. Để thay đổi một quy tắc xã hội, cần đến sự thay đổi nhận thức sâu sắc về tính đúng - sai của hành vi. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc làm gương, giáo dục một cách liên tục, nghiêm túc trong một thời gian dài.



Nguồn tham khảo

K6: Giảm nghèo

Thoát nghèo: khi nỗ lực cá nhân là không đủ


Con người ngày càng chinh phục được những thành tựu mới trong khoa học kỹ thuật, từ đó thúc đẩy kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho chính con người. Đặc biệt, trong một vài thập kỷ trở lại đây, chúng ta chứng kiến số lượng triệu phú, tỷ phú với giá trị tài sản khổng lồ gia tăng nhanh chóng. Có tỷ phú còn giàu hơn cả nhiều nước trên thế giới.[1] Nhưng trái ngược với sự giàu có, hào nhoáng đó, thế giới của chúng ta vẫn tồn tại một góc tối: vẫn có những người đang ngày đêm chật vật với từng bữa ăn, màn trời chiếu đất, không thể chăm sóc sức khỏe, không được đi học, không có nước sạch để uống. Bạn có biết rằng nếu bạn có thức ăn trong tủ lạnh, có quần áo để mặc, có một mái nhà che nắng che mưa, và có một chỗ ngủ, thì bạn đã giàu hơn 75% dân số của thế giới này? Và bạn có biết rằng nếu bạn có tiền trong tài khoản ngân hàng, có tiền trong ví, và có tiền lẻ nằm đâu đó quanh nhà, thì bạn đã nằm trong 8% những người giàu nhất trên thế giới?[2]

Vì sao lại có nhiều người phải chịu cảnh nghèo đói đến vậy? Điều gì đang ngăn cản họ thoát nghèo? Chúng ta, với tư cách là một xã hội, có thể làm gì để giúp nhóm người này có một cuộc sống tốt hơn?


1. Nghèo là gì?

Khái niệm “nghèo” có lẽ đã chẳng còn xa lạ với bất kỳ ai trong chúng ta. Một cách thông thường nhất, nghèo có thể được hiểu là không có đủ tiền để có được một mức sống tử tế, hoặc thiếu khả năng tiếp cận với những nguồn lực để có thể đảm bảo các nhu cầu tối thiểu, như là cơ sở chăm sóc sức khỏe, cơ sở giáo dục, hệ thống nước sạch, v.v.

Nghèo có thể được chia làm hai loại: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối

  • Nghèo tuyệt đối là khi một người hoặc một hộ gia đình không có mức thu nhập đủ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản trong một khoảng thời gian dài, như thực phẩm, quần áo, chỗ ở. Nếu bị đẩy xuống ngưỡng này, có thể khả năng sống còn của họ sẽ bị đe dọa.[3] Chỉ số Chuẩn nghèo quốc tế thường được sử dụng để xác định một người có nằm trong nhóm nghèo tuyệt đối hay không. Con số $1.90/ngày có lẽ đã tương đối quen thuộc với những ai quan tâm đến vấn đề nghèo đói, nhưng mới gần lại đây nó được điều chỉnh thành $2.15, tương đương với khoảng 50.000VNĐ mỗi ngày. Đây là ngưỡng tiền tệ mà nếu một ngày một cá nhân sống dưới mức đó thì họ sẽ được coi là nghèo cùng cực. Theo Ngân hàng Thế giới, khoảng 9.2% dân số thế giới (hay 719 triệu người) sống dưới ngưỡng này.[4]
  • Nghèo tương đối là mức nghèo thay đổi theo bối cảnh. Nghèo tương đối là khi một người có tình trạng kinh tế thấp hơn so với phần lớn các cá nhân khác trong xã hội, hoặc so với các cá nhân khác trong khu vực họ sinh sống. Ngưỡng này ở mỗi nước có thể có chút khác biệt, nhưng thường được xác định là 40%, 50% hoặc 60% của mức thu nhập sau thuế trung bình (average) hoặc trung vị (median) ở quốc gia đó.[5] Ví dụ mức thu nhập sau thuế trung bình của quốc gia X là 10 triệu/tháng, và nước X áp dụng mức 50%, nghĩa là những người có mức thu nhập từ 5 triệu đổ xuống (50% của 10 triệu) thì sẽ được coi là nghèo trong nước đó. Khi ở dưới mức này, người dân vẫn sẽ có tiền, nhưng số tiền ấy không đủ khả năng chi trả những nhu cầu mà vượt lên trên nhu cầu thiết yếu, không thể tham gia các hoạt động, cơ hội bình thường mà hầu hết mọi người khác đều có thể tiếp cận được và coi là hiển nhiên. Đó có thể là điện, mạng Internet, hay phương tiện đi lại. Phần lớn các nước có khoảng 15-20% dân số được coi là nghèo tương đối nếu kiếm được ít hơn 60% mức thu nhập sau thuế trung vị của quốc gia đó.[6]
Theo hai cách chia phổ biến trên đây, có vẻ như “nghèo” luôn gắn với tiền, hoặc thu nhập, nhưng thực chất đó không phải là tất cả.[7] Nghèo ở đây còn gắn với sự thiếu thốn cơ hội, lựa chọn, và khả năng tiếp cận.  Chính vì thế, đôi khi nghèo có thể khiến người nghèo phải trả nhiều hơn cho một dịch vụ so với một người thuộc tầng lớp trung lưu hoặc thượng lưu.

Một ví dụ kinh điển là “thuyết đôi bốt” đến từ nhà văn Terry Pratchett: một đôi bốt có giá thực sự tốt có giá 50 đô, và một đôi vừa túi tiền nhưng chất lượng thấp hơn có giá 10 đô. Với đôi bốt rẻ hơn, người ta có thể dùng được khoảng hai mùa trước khi nó bắt đầu rỉ nước, trong khi đôi giày 50 đô vẫn có thể làm tốt nhiệm vụ trong nhiều năm liền. Một người có khả năng chi trả 50 đô cho một đôi ủng có thể giữ chân của anh ta khô ráo trong 10 năm, trong khi người đàn ông nghèo chỉ có thể mua những đôi ủng rẻ tiền có thể sẽ phải bỏ ra nhiều tiền hơn trong cùng 10 năm đó để thay các đôi ủng khác nhau và chân vẫn bị ướt.[8]

Hay một ví dụ khác về người nghèo ở vùng sâu vùng xa muốn được khám chữa bệnh, nhưng không có bệnh viện trạm xá gần nơi họ sống, nên họ phải mất thêm chi phí di chuyển hàng chục, hàng trăm cây số, thậm chí thuê trọ ở trên thành phố để có thể nhận được khám chữa như mong muốn, trong khi những người có thể sống ở trên thành phố không cần phải lo lắng về những chi phí ngoài chi phí khám chữa bệnh. Còn rất nhiều những ví dụ như thế về việc làm người nghèo thực chất đắt đỏ như thế nào, trở thành một vòng lặp không lối thoát cho những con người sống trong cảnh nghèo khó.    Liên Hợp Quốc đã định nghĩa “nghèo” như sau:

Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không có trường học hoặc bệnh viện, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, bị tách biệt khỏi cộng đồng, xã hội. Nghèo dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh.


2. Tình trạng nghèo đang diễn ra như thế nào?

Có rất nhiều thông tin/số liệu về tình trạng nghèo đói trên thế giới cũng như những hệ lụy mà nó mang lại. Dưới đây là một vài những con số quan trọng:

Tại Việt Nam Trên thế giới
  • Theo ước tính sơ bộ năm 2019, 5,7% người Việt Nam được phân loại là nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều.
  • Cứ khoảng 5 người Việt Nam thì có một người sống dưới ngưỡng an ninh kinh tế là 5,50 đô-la Mỹ một ngày và 1/10 người dễ bị tổn thương có nguy cơ đôi lúc bị rơi xuống dưới ngưỡng do các cú sốc gây ra.[9]
  • Tỷ lệ nghèo ở người dân tộc thiểu số vẫn cao hơn so với tỷ lệ nghèo của người Kinh ở đầu thập kỷ mặc dù khoảng cách này đang được thu hẹp. Năm 2010, tỷ lệ nghèo của người Kinh ở mức thấp là 9% và giảm xuống gần bằng 0 vào năm 2020, trong khi tỷ lệ nghèo ở người dân tộc thiểu số chỉ giảm từ 57% vẫn ở mức 27%.[10]
  • Ở Việt Nam, có tới 1/3 số trẻ em dưới 16 tuổi, tức khoảng 7 triệu em thuộc diện nghèo.
  • Miền núi Tây Bắc là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất với 31,24%, tiếp theo là Miền núi Đông Bắc (17,72%), khu vực Tây Nguyên (15,27%), Đông Nam Bộ có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước là 1,05% và Đồng bằng Sông Hồng 3,23%.[11]
  • Cứ năm trẻ em thì có một trẻ sống trong cảnh nghèo đói cùng cực, và những tác động tiêu cực của nghèo đói và thiếu thốn trong những năm đầu đời có thể mang đến những hậu quả đeo bám các em cả đời.
  • Nghèo đói đẩy nhiều trẻ em vào thị trường lao động. Gần 60% lao động trẻ em trên toàn thế giới được tham gia vào sản xuất nông nghiệp, nơi mà trẻ em thường phải làm việc trong điều kiện nguy hiểm, từ đó dẫn đến cơ hội cuộc sống, giáo dục, và sức khỏe bị ảnh hưởng tiêu cực theo.[12]
  • Khu vực Nam Á và châu Phi cận Sahara dự kiến sẽ chứng kiến tình trạng nghèo cùng cực gia tăng nhiều nhất so với các vùng khác trên thế giới, với thêm 32 triệu và 26 triệu người lần lượt sống dưới chuẩn nghèo quốc tế do tác động của đại dịch.

Đại dịch Covid-19 đã gây ra một cuộc khủng hoảng chưa từng có, trong đó những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Năm 2023, lần đầu tiên trong hơn 20 năm, tình trạng nghèo cùng cực trên toàn cầu gia tăng. Nhiều người đã thoát khỏi cảnh nghèo cùng cực có thể bị buộc phải quay lại dưới ngưỡng nghèo. Thu nhập mất, bảo trợ xã hội hạn chế và giá cả tăng cao có nghĩa là ngay cả những người trước đây được an toàn cũng có nguy cơ rơi vào nghèo đói. Thiếu việc làm và thất nghiệp do khủng hoảng cũng khiến khoảng 1,6 tỷ người lao động bị ảnh hưởng trầm trọng, với thu nhập của họ ước tính đã giảm 60% trong tháng đầu tiên của khủng hoảng. Covid-19 thực sự đã làm gián đoạn đáng kể tiến trình đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững đề ra bởi Liên Hợp Quốc cho năm 2030.

Vừa rồi là rất nhiều thông tin đề tình trạng đói nghèo ở trên thế giới nói chung, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển hoặc của những nhóm người dễ bị tổn thương nhất. Tuy nhiên sẽ là sai lầm nếu cho rằng nghèo chỉ ở xảy ra ở những nước đang phát triển. Ở các nước giàu có, vẫn có một bộ phận người dân không thể tham gia vào các hoạt động xã hội, không có được những cơ hội mà một người bình thường có thể coi là hiển nhiên, hay thậm chí là không có khả năng chi trả cho những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống.


3. Tình trạng nghèo xuất hiện ở mọi nơi, kể cả những nước giàu có nhất

Những nước thu nhập cao không có nghĩa là tất cả người dân của họ đều có thể tiếp cận với các nhu cầu thiết yếu một cách dễ dàng. Nghèo đói cũng không phải chỉ xuất hiện mới đây do ảnh hưởng của đại dịch hay chiến tranh Ukraine - đúng là những yếu tố này khiến tình trạng trầm trọng hơn, nhưng đã vẫn luôn tồn tại một bộ phận người dân phải chịu cảnh nghèo ở những nước được coi là giàu. Trong OCED - tổ chức mà các quốc gia thành viên phần lớn đều là các nước thu nhập cao, cứ 7 trẻ em thì có 1 trẻ đang sống với mức thu nhập cực kỳ thấp.[13] Một số trường hợp cụ thể về vấn đề nghèo diễn ra ở các nước thu nhập cao có thể được tìm thấy dưới đây:

Đức[14]

Mặc dù nghèo ở quốc gia này không có nghĩa là người dân có nguy cơ chết đói hoặc chết cóng, càng nhiều người sẽ không đủ sống nếu không được hỗ trợ. Những nhu yếu phẩm như bánh mì, sữa, trái cây, rau quả đều tăng giá ít nhất 12% so với một năm trước. Hiện có khoảng 13,8 triệu người Đức sống trong cảnh nghèo đói hoặc có nguy cơ rơi vào mức nghèo đói. Từ năm 2020 đến 2022, đã có thêm khoảng 1 triệu người Đức phải sử dụng “ngân hàng thực phẩm” (food bank) - nơi cung cấp đồ ăn miễn phí cho người nghèo.

Nhật Bản[15]

Là nước có mạng lưới an sinh xã hội nổi tiếng thế giới và là một trong những nước giàu có nhất, thế nhưng Nhật Bản đứng trong top những quốc gia có tỷ lệ trẻ em sống trong nghèo đói lớn nhất trong các nước phát triển. Hiện có khoảng 3,5 triệu trẻ em Nhật Bản - hoặc một trong sáu trẻ em dưới 17 tuổi - đang sống trong những hộ gia đình được coi là “nghèo tương đối”. Các gia đình này phải cố gắng hết sức để đảm bảo con cái họ được mặc quần áo tử tế và tham gia các chuyến dã ngoại đắt tiền ở trường, và vì thế họ phải cắt giảm thức ăn và các nhu yếu phẩm khác thì mới đủ sống. Trẻ em và các gia đình này phải lui tới những quán ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho người nghèo.

Hoa Kỳ[16]

Một nghiên cứu xuất bản vào năm 2022 đã cho thấy hơn một phần ba các gia đình ở Mỹ dù làm việc toàn thời gian cũng không kiếm đủ tiền để trang trải các nhu cầu cơ bản nhất, bao gồm nhà ở, thực phẩm, và trông trẻ. Tình hình kinh tế còn tồi tệ hơn với các gia đình lao động da màu và gốc Tây Ban Nha khi con số này lên đến hơn 50%. Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là kết quả của cuộc khảo sát này dựa trên dữ liệu từ năm 2015 đến năm 2019, trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát gây tổn hại nghiêm trọng đến thị trường việc làm, và trước cả khi lạm phát, giá xăng dầu, và giá lương thực tăng đột biến gần đây.[17] Chuyện người Mỹ phải xếp hàng trước các ngân hàng thực phẩm để nhận đồ ăn cứu trợ do không thể mua được đồ ăn, hay trở nên vô gia cư vì thiếu nhà ở giá rẻ đã không còn là chuyện hiếm ở đất nước vốn được coi là quyền lực nhất, giàu có nhất thế giới này.

Mặc dù có thể ở những nước phát triển tỷ lệ nghèo cùng cực theo Chuẩn nghèo quốc tế là rất thấp (phần lớn dưới 2%[18]), không thể phủ nhận vẫn có rất nhiều người vẫn đang chật vật để lo cho cuộc sống của bản thân và con cái họ. Người nghèo, dù ở nước phát triển hay đang phát triển, đều đang phải chịu những thiệt thòi trong xã hội và buộc phải đưa ra lựa chọn giữa những nhu cầu thiết yếu đối với một con người.

Vậy có phải nghèo đói là chuyện đương nhiên trong xã hội hay không?


4. Có phải nghèo là chuyện đương nhiên trong xã hội hay không?

Nghèo đói là một tình trạng đã luôn tồn tại trong xã hội con người, dù ở những nước giàu có nhất hay kém phát triển nhất. Tuy nhiên, việc một hiện tượng đang tồn tại không có nghĩa là nó nên tồn tại. Đồng ý rằng có rất nhiều yếu tố dẫn đến việc tài sản, thu nhập của những người trong xã hội lúc nào cũng có sự chênh lệch, như là tư duy, bằng cấp, thừa kế từ gia đình, sự kiên trì, cơ hội, v.v., nhưng ở một xã hội lý tưởng, chỉ nên có những người giàu và những người không giàu bằng. Những người không giàu bằng đó, dù không có khả năng chi trả cho những chuyến du lịch nước ngoài xa hoa, sở hữu bộ sưu tập siêu xe, hoặc sống trong những biệt thự, chung cư hạng sang, sẽ vẫn đủ ăn, đủ mặc, có chỗ ở đàng hoàng, được học hành, có công ăn việc làm an toàn và trả mức lương xứng đáng, đủ sống. Việc có người chết vì không có tiền để chữa bệnh, ở trong những căn nhà 2-3 m2 ẩm thấp, không có ánh sáng mặt trời, hay trẻ em không được đi học vì phải ở nhà phụ giúp gia đình không bao giờ nên được coi là chuyện bình thường, chuyện đương nhiên trong xã hội.


5. Nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng nghèo?

Khi được hỏi “Vì sao người nghèo lại nghèo?”, câu trả lời đầu tiên nảy ra trong đầu của rất nhiều người sẽ là “vì người nghèo không biết cố gắng” hoặc “vì họ không biết làm giàu.” Từ khi nào, người nghèo không những khổ sở vì điều kiện sống thiếu thốn mà còn bị coi là thủ phạm cho chính sự nghèo khó của họ. Không khó để bắt gặp những bài báo mang tiêu đề như “3 lý do khiến bạn nghèo”, “6 kiểu tư duy của người làm mãi vẫn nghèo”, “Bi kịch của người nghèo không phải là thiếu tiền, mà là thiển cận.” Bằng cách nào đó, một bộ phận trong xã hội đã chấp nhận rằng, khi một người bị coi là nghèo, người đó chỉ có chính bản thân mình để oán trách.

Không những thế, những tấm gương vượt nghèo luôn được mang ra như một minh chứng khác của việc những người không thể thoát nghèo là vì họ không cố gắng đủ, bởi nhìn kìa, chẳng phải có người đã làm được đó thôi? Không thể phủ nhận ý chí, nghị lực, hay tư duy của một người đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng cuộc sống của người ấy, nhưng đó không phải là tất cả. Nếu bạn sinh ra trong một gia đình nghèo, với bệnh tật đầy mình, không có nước sạch để ăn uống tắm giặt, bữa đói bữa no, ở một vùng xa xôi cách biệt với thế giới bên ngoài, không được chữa bệnh, không có khả năng tiếp cận các cơ hội giáo dục, việc làm, thì chẳng có ý chí, nghị lực nào sẽ giúp bạn hết bệnh hay sẽ giúp bạn có một cuộc sống đàng hoàng, no đủ được cả. Thực chất, không có thống kê, số liệu, hay nghiên cứu nào chứng minh được nghèo khó là một lựa chọn cá nhân.

Sau đây là một số nguyên nhân dẫn đến nghèo đói mà đã được chứng minh dựa trên nghiên cứu chính quy, bài bản và được các tổ chức có tiếng trên thế giới công nhận[19]:

Thiếu nước sạch và thực phẩm đủ dinh dưỡng Mặc dù nghèo thường được coi là nguyên nhân của việc đói, đói cũng là nguyên nhân dẫn tới nghèo. Không có đủ thức ăn, nước uống đảm bảo, con người sẽkhông thể có đủ sức khỏe để làm việc hay học tập. Đây là vòng luẩn quẩn có thể duy trì tình trạng nghèo của một người trong thời gian dài.
Thiếu khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản Sức khỏe kém là một nguyên nhân lớn khác dẫn đến nghèo. Bệnh tật thường xuyên có thể ngăn cản một người đi học hoặc có việc làm, hoặc cũng có thể khiến họ dành hết số tiền làm được vào các chi phí khám, chữa bệnh. Thiếu các cơ sở y tế, trang thiết bị, bác sĩ, v.v. làm vấn đề trở nên trầm trọng hơn.
Bất bình đẳng Bất bình đẳng xảy ra khi một nhóm người có ít nguồn lực và cơ hội hơn những nhóm khác. Bất bình đẳng xoay quanh các yếu tố như giới tính, chủng tộc, hoàn cảnh kinh tế, địa vị xã hội, tuổi tác, và khả năng thể chất. Phân biệt đối xử về giới vẫn là hình thức bất bình đẳng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới:

VD: Ở những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, trẻ em gái và phụ nữ là những người ăn cuối cùng, ăn ít nhất, và ăn thực phẩm có chất lượng kém nhất. Ở 18 quốc gia, người chồng vẫn có khả năng cấm vợ đi làm. Không có sức khỏe tốt và cũng không có quyền tự do lao động kiếm tiền làm giảm đi khả năng tạo ra của cải vật chất, khiến phụ nữ khó có thể thoát nghèo.

Xung đột và bất ổn Xung đột và bất ổn là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến nghèo đói trên thế giới hiện nay. Xung đột có thể là một cuộc đấu tranh vũ trang hoặc bạo lực kéo dài. Hệ quả của những cuộc xung đột như vậy là cuộc sống của người dân bị hủy hoại, đặc biệt là khi phải chạy trốn đến một vùng khác. Đối với trẻ em, sự dịch chuyển này đồng nghĩa với việc bỏ lỡ nhiều tháng, thậm chí nhiều năm học tập. Người lớn thường mất nghề nghiệp và kế sinh nhai. Những người tị nạn thường phải sống trong cảnh nghèo khổ, không có thức ăn, nước uống và các dịch vụ cơ bản.
Thiếu cơ hội tiếp cận giáo dục Thiếu giáo dục không ngay lập tức làm một người trở nên nghèo, nhưng nó có thể góp phần kéo dài vòng lặp nghèo đói. Rất nhiều người sống trong cảnh nghèo cùng cực có trình độ học vấn hạn chế vì họ phải ưu tiên cho các nhu cầu cơ bản khác. Đối với những người khác, trường học có thể ở rất xa, hoặc không có đủ giáo viên, phòng học, và sách vở học tập. Cũng có những trường hợp văn hóa của cộng đồng ngăn cản việc trẻ em gái và phụ nữ đến trường.
Cơ hội việc làm ít, bất ổn Thiếu việc làm an toàn, mang lại thu nhập đủ sống là một nguyên nhân khác dẫn đến đói nghèo. Có nhiều yếu tố đóng góp vào sự thiếu hụt này: có thể là do thiếu tay nghề nên dù có việc cần người nhưng cũng không thể làm, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt khiến nuôi trồng khó khăn, hay tình trạng xung đột tiếp diễn khiến nền kinh tế không phát triển được, không tạo ra công ăn việc làm. Sự thiếu hụt việc làm cũng không phải là vấn đề duy nhất: nhiều người, dù có việc làm, vẫn phải đối mặt với những thách thức như điều kiện làm việc nguy hiểm, bóc lột, phân biệt đối xử, và trả lương không công bằng. Với môi trường làm việc tệ hại, con người không thể làm việc trong một thời gian dài, hoặc sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, từ đó lặp lại vòng quay nghèo đói.
Thiểu sự can thiệp/hỗ trợ của chính phủ Những hành động can thiệp/hỗ trợ có thể đến từ nhiều khía cạnh. Đó là thể là việc xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản như đường xá, mạng lưới điện và nước, đường sắt, giao thông công cộng, và viễn thông, hoặc có thể là trợ giá lương thực, chăm sóc sức khỏe miễn phí, giáo dục. Thiếu đi những sự hỗ trợ này, người nghèo có thể bị cô lập với phần còn lại của thế giới, hay cần phải dành phần lớn thu nhập ít ỏi để chi trả cho các nhu cầu thiết yếu, từ đó giảm cơ hội thoát nghèo.
Có thể thấy những nguyên nhân trên đây đều không xuất phát từ bản thân người nghèo hay nằm trong tầm kiểm soát của họ, do đó để mong đợi họ có thể tự thân thoát nghèo là một việc gần như là bất khả thi. Để khiến vấn đề trầm trọng hơn, tình trạng nghèo khó của một người thường không đến từ một nguyên nhân duy nhất - phần lớn thời gian nó là tổ hợp của nhiều nguyên nhân, yếu tố có sự liên kết chặt chẽ với nhau, cùng nhau duy trì tình trạng ấy. Dưới đây là một vài ví dụ về mối liên hệ giữa các yếu tố dẫn đến nghèo đói:


Đây không phải là vòng lặp hay mối liên hệ duy nhất khiến người nghèo không thể thoát nghèo một cách dễ dàng. Chính bởi sự liên kết chặt chẽ này mà việc thoát nghèo trở thành một vấn đề vô cùng phức tạp, không có một giải pháp kỳ diệu nào có thể ngay lập tức xóa nghèo triệt để. Để giải quyết được tận gốc đói nghèo, trước tiên hết chúng ta cần phá vỡ vòng lặp hay mối liên kết giữa các nguyên nhân. Điều này cần sự chung tay của chính phủ, các tổ chức, cũng như các cá nhân may mắn hơn trong xã hội.


6. Làm thế nào để giảm nghèo?

Tất nhiên, những người nghèo nên nỗ lực, phấn đấu để cải thiện cuộc sống của mình, và điều này là không cần bàn cãi. Câu hỏi "làm thế nào để giảm nghèo" hướng nhiều hơn vào vai trò của xã hội, của những người đang không chịu ảnh hưởng quá nặng nề của việc nghèo.

Những chiến dịch, chương trình kêu gọi ủng hộ, giúp đỡ người nghèo đã không còn xa lạ với bất kỳ ai trong chúng ta. Có thể thấy rất nhiều loại hình hỗ trợ đã được áp dụng, từ quyên góp vật chất (tiền bạc, thức ăn, quần áo, đồ dùng, trang thiết bị, v.v.), xây dựng điện-đường-trường-trạm, hỗ trợ vốn cho người nghèo, đến trao học bổng, tổ chức những chương trình đào tạo, giáo dục miễn phí, v.v. Những nỗ lực này đến từ rất nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau; chính phủ có, tư nhân có. Hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng vẫn được sử dụng mỗi năm để hướng đến giảm nghèo trên khắp thế giới.

Nhưng đáng buồn thay là tình trạng nghèo đói vẫn đang tiếp diễn. Dù có nhiều cách lý giải khác nhau cho hiện trạng này, sau đây là một vài luận điểm đáng suy ngẫm[20]:

  • Nhiều nguồn lực vẫn đổ dồn vào khắc phục “triệu chứng” hơn là “nguyên nhân”: Không khó để tìm thấy những bài báo, bài đăng, chương trình tivi kêu gọi các nhà hảo tâm, các mạnh thường quân đóng góp tiền của để hỗ trợ một trường hợp nhà nghèo phải bỏ học, gia đình khó khăn có thành viên mắc bệnh nan y, hay các em học sinh miền núi không có đủ cơm ăn. Từ thiện phần nào bác bỏ tính nghiêm trọng và phức tạp của vấn đề mà chúng ta đang cố gắng giải quyết: chúng ta thường hay tập trung giải quyết “triệu chứng”, nhu cầu trước mắt của người cần giúp mà vô tình bỏ qua những nguyên nhân gây ra “triệu chứng” hay nhu cầu đó.

Lấy việc tặng đồ ăn hay quần áo cho người vô gia cư làm ví dụ - đúng là có thể họ đang đói, đang lạnh thật, nhưng liệu mong muốn của chúng ta có phải là “giúp họ vô gia cư một cách thoải mái hơn?” Câu hỏi cần được đặt ra ở đây có lẽ nên là vì sao họ lại đang phải sống cảnh không nhà: Có phải vì lý do sức khỏe nên họ không thể kiếm được việc làm nên không thể có tiền để thuê một căn nhà trọ? Hay dù có công việc nhưng giá nhà trọ quá cao và ngày càng tăng nhanh nên họ không đủ khả năng chi trả? Tại sao có những ngôi nhà cộng đồng sẵn sàng đón nhận họ, nhưng họ lại chọn cảnh “màn trời chiếu đất”? Phải trả lời được những câu hỏi này, thì ta mới có thể thực sự giải quyết được vấn đề tận gốc, mới có thể thực sự giúp người.

  • Chỉ tập trung vào một số yếu tố nhỏ, chưa có nhận thức về việc “phá vỡ vòng lặp”: Nghèo đói thường được gây ra bởi nhiều yếu tố, và các yếu tố phần lớn đều liên quan mật thiết đến nhau (xem lại phần yếu tố gây ra đói nghèo). Chính bởi vì chúng liên quan mật thiết đến nhau và diễn ra song song, sẽ không có một giải pháp toàn năng nào có thể giải quyết vấn đề đói nghèo một lần và mãi mãi. Để thực sự xóa bỏ vấn đề này, chỉ tập trung vào một khía cạnh sẽ không bao giờ là đủ.
  • Đổ lỗi cho cá nhân thay vì công nhận những nguyên nhân mang tính vĩ mô, hệ thống: Chỉ khi chúng ta - với tư cách là một xã hội - chấp nhận rằng có những khía cạnh về mặt chính sách chưa hoàn hảo, các giải pháp thực sự có hiệu quả và ảnh hưởng rộng mới có thể xuất hiện

Ví dụ như rất nhiều nơi trên thế giới vẫn giữ mức lương tối thiểu không đủ sống, thiếu hụt các dịch vụ công như trường học, bệnh viện, cung cấp nước sạch, hay không có biện pháp kiểm soát và loại bỏ các xưởng, nhà máy bóc lột nơi người lao động làm việc trong điều kiện tồi tệ và trả lương ít ỏi, v.v. - với những yếu điểm trong quản lý và nguồn lực hạn chế như vậy còn đang tồn tại, làm sao có thể mong chờ người nghèo có thể tự vươn ra khỏi cảnh nghèo khó? Đồng ý rằng cá nhân vẫn cần có sự cố gắng nhất định để bồi dưỡng bản thân và làm việc trong khả năng của mình, tuy nhiên nếu không có sự thay đổi về mặt hệ thống, thoát nghèo sẽ là một con đường vô cùng khó khăn.

Từ những lý giải trên đây về việc vì sao nghèo đói vẫn chưa được xóa sổ hoàn toàn, cộng với những nguyên nhân của nghèo đói và sự tương tác giữa chúng đã được giải thích từ phần trước, ta có thể rút ra được một số nguyên lý chung khi cố gắng giải quyết vấn đề đói nghèo: (1) cho tiền chỉ là giải pháp tạm thời với hiệu quả tối thiểu, (2) giải pháp cần đánh vào nhiều yếu tố cùng một lúc để giảm khả năng duy trì của vòng lặp nghèo đói, và (3) chuyển hướng tập trung từ trách nhiệm cá nhân sang trách nhiệm của xã hội, của hệ thống.

Nếu mỗi cá nhân muốn góp phần vào việc giảm nghèo, thì việc làm từ thiện vẫn là một cách tốt để giúp đỡ người nghèo, vì không phải ai cũng đủ khả năng để thực hiện những công việc trực tiếp liên quan, và tiền của vẫn là nguồn lực cần thiết, thậm chí chủ chốt cho bất kỳ nỗ lực giảm nghèo nào. Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng từ thiện không phải là hành động duy nhất có thể làm nếu một người thực sự quan tâm về vấn đề nghèo đói của xã hội, và từ thiện không nên chỉ được thực hiện để cá nhân thoải mái hơn vì mình đã làm gì đó rồi. Đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn nhận giải pháp của vấn đề nghèo đói không thể chỉ dựa vào tình thương, sự lương thiện của những người may mắn hơn - đây là một vấn đề mang tính hệ thống, và cá nhân có thể đóng góp vào giải pháp thông qua nhiều cách khác nhau chứ không chỉ giới hạn ở từ thiện.     



Nguồn tham khảo

  1. Elon Musk Is Richer Than Many Countries Including Pakistan With A Net Worth Of 340 Billion Occupies The Chair Of Billionaire Number 1
  2. WE ARE THE LUCKY ONES
  3. Relative Poverty vs. Absolute Poverty
  4. Global poverty: Facts, FAQs, and how to help
  5. Beyond the goal of eradicating absolute poverty in China: relative poverty indicators and social security policies
  6. Share of population below 60% of median income or consumption
  7. Chính sách cho hộ nghèo đa chiều vùng bãi ngang, ven biển qua thực trạng tại tỉnh Thừa Thiên Huế
  8. The Cost of Being Poor: Why It Costs So Much to Be Poor in America
  9. Giải quyết nghèo kinh niên, đảm bảo dịch chuyển kinh tế bền vững là chìa khóa để Việt Nam đạt được khát vọng quốc gia thu nhập cao
  10. Những điểm nhấn trong bức tranh thực trạng nghèo và bình đẳng Việt Nam giai đoạn 2010-2020
  11. Bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số
  12. Child labour in agriculture _ International Labour Organization
  13. Why rich countries are seeing more poverty
  14. Đức đối mặt với nguy cơ nghèo đói
  15. Japan's rising child poverty exposes true cost of two decades of economic decline
  16. Why Poverty Persists in America
  17. More than a third of working families can’t afford basic needs: study
  18. Poverty - Our World in Data
  19. 10 major causes of poverty and how we can help solve them
  20. We can end poverty, but this is why we haven't

K7: Biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu: Thảm họa được báo trước


Thời gian gần đây những cụm từ như “nắng nóng kỷ lục”, “giá rét kỷ lục”, “bão lũ trái quy luật”, “sông băng biến mất” v.v. được nhắc đến với tần suất dày đặc trên các phương tiện truyền thông. Thiệt hại về người và của liên tục tăng lên, cùng với đó là sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật khác nhau. Nguyên nhân của những sự kiện này, không gì khác, chính là biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu hiện diện ở khắp mọi nơi, là một trong những vấn đề cấp thiết nhất của con người trong thời đại này. Từ việc thay đổi quy luật thời tiết khiến cho sản xuất lương thực bị đe dọa, đến mực nước biển dâng cao làm tăng nguy cơ lũ lụt thảm khốc, tác động của biến đổi khí hậu có phạm vi toàn cầu và quy mô lớn chưa từng thấy.

Vấn đề này đã xảy ra trong một thời gian dài, và đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có dấu hiệu “hạ nhiệt”, thậm chí còn ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Lý do có thể là vì vẫn còn nhiều người coi đó là một vấn đề xa vời và chọn không làm gì cả, hay đã và đang cố gắng đóng góp vào giải quyết, ứng phó với biến đổi khí hậu nhưng kết quả chưa được như mong đợi bởi chưa tập trung đúng vào nguyên nhân gốc rễ, hoặc giải pháp chưa có sức ảnh hưởng lớn.

Đây không phải là vấn đề của riêng một quốc gia, một vùng lãnh thổ, hay của một nhóm người - đây là vấn đề mà cả nhân loại phải đối mặt. Nhiệm vụ giải quyết một vấn đề có quy mô và ảnh hưởng đồ sộ như biến đổi khí hậu dễ tạo ra cảm giác nản chí, nhưng bước đầu tiên để giải quyết một vấn đề phức tạp là chia nó ra thành những phần nhỏ hơn, dễ giải quyết hơn. Và không có cách nào tốt hơn để bắt đầu giải quyết một vấn đề bằng cách tìm hiểu rõ về bản chất của vấn đề ấy. Văn bản này sẽ trả lời một số câu hỏi như: Biến đổi khí hậu là gì? Đang diễn ra như thế nào? Nó bắt nguồn từ đâu? Những gì đã được thực hiện để chống lại biến đổi khí hậu và hiệu quả ra sao? Với những thông tin này, mong rằng bạn sẽ có một cái nhìn rõ ràng hơn về biến đổi khí hậu và thực hiện những hành động phù hợp để chung tay giải quyết vấn đề này.


1. Biến đổi khí hậu là gì?

Biến đổi khí hậu là sự thay đổi các quy luật thời tiết đặc thù được quan sát thấy ở một vùng trong một khoảng thời gian nhất định. Những quy luật này bao gồm tất cả những yếu tố liên quan đến thời tiết, như là nhiệt độ, gió và lượng mưa. Biến đổi khí hậu trên quy mô thế giới đề cập đến những thay đổi mà toàn bộ khí hậu của hành tinh phải gánh chịu. Về lâu dài, tốc độ và phạm vi của những thay đổi liên quan đến khí hậu có thể gây ra nhiều hậu quả đối với các hệ sinh thái và các hoạt động của con người.[1]

Khí hậu của Trái Đất đã thay đổi một cách tự nhiên nhiều lần trước đây, gây ra bởi các vụ phun trào núi lửa, thay đổi năng lượng của mặt trời, hay thay đổi quỹ đạo của Trái Đất.[2] Mặc dù vậy, hiện tượng nóng lên hiện nay đang diễn ra với tốc độ chưa từng thấy trong 10.000 năm qua, khiến chúng ta không thể quy hoàn toàn trách nhiệm cho tự nhiên. Đã có rất nhiều những bằng chứng khoa học chứng minh rằng biến đổi khí hậu gây ra bởi hoạt động phát triển kinh tế, xã hội của con người.

2. Biến đổi khí hậu đang diễn ra như thế nào?
Krill - một loài động vật đang bị đe dọa bởi biến đổi khí hậu
Nhiệt độ tăng lên là biểu hiện có thể nhìn thấy rõ nhất của biến đổi khí hậu, và sự ấm lên này cũng gây ra nhiều hệ lụy khác. Từ năm 1880 đến năm 2012, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng 0.85°C. Sự thay đổi tưởng chừng rất nhỏ này có thể có ảnh hưởng rất lớn đến động, thực vật trên Trái Đất. Ví dụ, ngô, lúa mì, và các loại cây trồng chính khác đã bị giảm năng suất đáng kể ở cấp độ toàn cầu lên tới 40 triệu tấn mỗi năm từ năm 1981 đến 2002 vì sự nóng lên này. Hay sự gia tăng băng tan trên biển do hiện tượng nóng lên toàn cầu và axit hóa đại dương ở Bắc Băng Dương đang làm giảm quần thể krill (hình minh họa - một loài giáp xác nhỏ giống tôm, có thể được tìm thấy ở khắp mọi đại dương trên thế giới). Sự sự giảm số lượng loài krill gây đe dọa sự sống còn của cá voi, chim cánh cụt, và hải cẩu - những loài vốn sử dụng krill làm nguồn thức ăn chính.[3]

Khi nhắc đến biến đổi khí hậu, nhiều người thường chỉ nghĩ đến việc nhiệt độ tăng lên. Nhưng sự ấm lên đó chỉ là khởi đầu. Trái Đất là một hệ thống, trong đó mọi thứ được kết nối, nhiệt độ có thể ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố khác như lượng mưa và gió ở một vùng, thậm chí những thay đổi trong một khu vực có thể ảnh hưởng đến tất cả những nơi khác.[4]

Hậu quả của biến đổi khí hậu bao gồm hạn hán nghiêm trọng, khan hiếm nước, hỏa hoạn nghiêm trọng, mực nước biển dâng cao, lũ lụt, băng tan ở 2 cực, bão thảm khốc, và suy giảm đa dạng sinh học. Từ năm 1901 đến 2012, mực nước biển trung bình toàn cầu đã dâng lên 19cm khi các đại dương mở rộng do băng tan. Biển băng ở Bắc Cực đã liên tục bị thu hẹp kể từ năm 1979, với trung bình 1,07 triệu km2 bị mất đi mỗi thập kỷ (nên nhớ, diện tích của Việt Nam là khoảng 300 nghìn km2). Với nồng độ hiện tại và lượng phát thải nhà kính đang diễn ra, có khả năng vào cuối thế kỷ này, mức tăng nhiệt độ toàn cầu sẽ vượt quá 1,5°C kể từ năm 1900.

Những hậu quả về mặt tự nhiên này tác động trực tiếp đến sức khỏe, khả năng sản xuất lương thực, nhà ở, sự an toàn, và sinh kế của con người. Có những người dễ bị tổn thương hơn trước các tác động của khí hậu, chẳng hạn như người dân ở các quốc đảo nhỏ và các nước đang phát triển. Các điều kiện như mực nước biển dâng và xâm nhập mặn đã tiến triển đến mức toàn bộ cộng đồng phải di dời, hạn hán kéo dài khiến người dân đối mặt với tình trạng đói. Trong tương lai, số lượng “người tị nạn khí hậu” dự kiến sẽ tăng lên.

Philippines là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đang có những tác động tiêu cực đến đời sống, sự thịnh vượng và sinh kế của người dân nơi đây.[5] Đất nước này thường xuyên phải đối mặt với thiên tai có sức tàn phá khủng khiếp như bão, lũ lụt, hạn hán và mực nước biển dâng, và mức nhiệt gia tăng làm tăng tần suất xuất hiện của những cơn bão. Với khoảng 50% dân số sinh sống ở các vùng đô thị và ven biển, những hình thái thời tiết cực đoan đã và đang cản trở hoạt động kinh tế, làm hư hại cơ sở vật chất, và gây ra những gián đoạn xã hội nghiêm trọng.[6] Điển hình, vào năm 2022, siêu bão Noru gây ra tổn thất nông nghiệp cho nước này là 21,9 triệu USD và thất thoát 72.000 tấn nông sản, và khiến cho hơn 74.000 người dân phải sơ tán khỏi nơi ở.

Viễn cảnh biến đổi khí hậu càng ngày càng tệ đi[7]
Không những vậy, chúng ta đang ngày càng tiến gần đến các “điểm tới hạn” của khí hậu, thậm chí đã vượt qua một số mốc nhất định. “Điểm tới hạn” (tipping point) là mốc mà khi chúng ta vượt qua, thảm họa toàn cầu sẽ được kích hoạt, và khi ấy không một nỗ lực nào có thể đảo ngược hay giảm thiểu những tác động đó nữa.[8] Hiện tại đã có 5 điểm tới hạn nguy hiểm mà con người có lẽ đã đạt đến do khiến nhiệt độ tăng thêm 1,1 độ C, bao gồm sự sụp đổ của chỏm băng Greenland (gây ra mực nước biển dâng cao), sự sụp đổ của một dòng chảy chính ở Bắc Đại Tây Dương (làm gián đoạn quy luật mưa mà hàng tỷ người phụ thuộc vào để nuôi trồng thực phẩm), và sự tan chảy đột ngột của lớp băng vĩnh cửu giàu cacbon.

Nếu tăng đến 1,5 độ C, những thay đổi lớn với các khu rừng rộng lớn phía bắc và sự biến mất của hầu hết các sông băng trên núi sẽ xảy ra. Tổng cộng, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng cho 16 điểm tới hạn khác nhau, trong đó 6 điểm cuối cùng yêu cầu nhiệt độ toàn cầu tăng lên thêm 2 độ C để kích hoạt. Hậu quả của việc vượt qua các điểm tới hạn này có thể mất vài năm tới vài thế kỷ mới có thể nhìn thấy được, nhưng khi ấy không còn gì mà con người có thể làm để cứu bản thân mình được nữa.[9] Nếu không hành động ngay từ bây giờ, đến một thời điểm nào đó, sẽ không còn cơ hội nào để chúng ta sửa sai.

Xem thêm về minh chứng của biến đổi khí hậu đang tác động nghiêm trọng tới con người khắp nơi trên thế giới tại ĐÂY.[10] 3. Ở Việt Nam thì sao? Chúng ta có chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu không?

Việt Nam là nước dễ chịu ảnh hưởng trước các tác động của BĐKH. Cùng với Myanmar, Philippines, và Thái Lan, Việt Nam nằm trong top 10 những nước trên toàn thế giới chịu ảnh hưởng lớn nhất từ biến đổi khí hậu trong vòng 20 năm vừa qua.[11] Những diễn biến của BĐKH tại Việt Nam bao gồm các hiện tượng thời tiết cực đoan đang ngày càng gia tăng về tần suất và thường khó dự đoán, trải dài rộng khắp các miền của đất nước, trong đó điển hình là hiện tượng khô hạn và mưa cực đoan ở miền Trung, rét đậm và rét hại ở miền núi phía Bắc, hạn hán và xâm nhập mặn ở miền Nam.[12]

Những kỷ lục mới vẫn được thiết lập mỗi năm về nhiệt độ, lượng mưa hay lũ lụt. Năm 2017 được coi là năm kỷ lục về thảm họa thiên tai tại Việt Nam, với hơn 16 cơn bão, lũ lịch sử trái quy luật. Nhiệt độ, lượng mưa, mực nước sông cũng tăng lên, kéo theo rất nhiều hệ lụy đối với cuộc sống con người.[13]

Các thành phố lớn của Việt Nam cũng rất dễ bị ảnh hưởng về biến đổi khí hậu, dù hình thái có thể khác nhau đôi chút. Có thể dễ dàng tìm thấy những thông tin về hậu quả của biến đổi khí hậu lên các thành phố này chỉ với một vài thao tác tìm kiếm đơn giản trên các công cụ tìm kiếm.

Xem thêm những hình ảnh, phân tích về tình trạng biến đổi khí hậu tại Việt Nam tại ĐÂY.[14]


4. Ai là người chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ biến đổi khí hậu?

Những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất thường chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu nhưng lại đóng góp ít nhất vào sự khủng hoảng khí hậu này. Bạn có biết 1% dân số giàu nhất toàn cầu phát thải lượng khí nhà kính nhiều hơn so với 50% dân số nghèo nhất? Khi tác động của biến đổi khí hậu gia tăng, hàng triệu người sẽ chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ các sự kiện thời tiết cực đoan, trong đó bao gồm các ảnh hưởng đến sức khỏe, lương thực, nước sạch và sinh kế, cũng như các rủi ro liên quan khác.

Những người chịu ảnh hưởng nhiều hơn cả từ biến đổi khí hậu có một số đặc điểm chung về vị trí địa lý, tình trạng tài chính, kinh tế xã hội, văn hóa và giới tính; và khả năng tiếp cận với các nguồn lực, dịch vụ, quyền đưa ra quyết định, và công lý[15] (đọc thêm về những người chịu tác động nặng về nhất từ khủng hoảng khí hậu tại ĐÂY[16] và ĐÂY[17]).


5. Nguyên nhân dẫn tới biến đổi khí hậu

Khí nhà kính (greenhouse gases) đã được chứng minh là tác nhân trực tiếp gây ra sự nóng lên cho Trái Đất. Thực chất, khí nhà kính không xấu hoàn toàn - nếu không có khí nhà kính, nhiệt độ trung bình của bề mặt Trái Đất sẽ là khoảng -18 độ C (thay vì mức trung bình hiện tại là 15 độ C), một nhiệt độ khó để duy trì sự sống. Nhưng khi khí nhà kính quá nhiều, Trái Đất không thể thoát nhiệt nhanh chóng và hiệu quả như trước, từ đó khiến Trái Đất nóng lên.

Các nhà khoa học cho rằng hoạt động của con người khiến khí nhà kính tăng lên vượt mức cho phép, là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến biến đổi khí hậu. Các khí nhà kính chính tồn tại trong bầu khí quyển bao gồm hơi nước (H2O), cacbon đioxit (CO2), meetan (CH4), nitơ oxit (N2O), và ozon (O3). Trong đó, CO2 chiếm tỷ lệ lớn nhất (74.7%) tổng lượng khí nhà kính[18], được biết đến là tác nhân lớn nhất gây ra biến đổi khí hậu.

Càng ngày chúng ta càng thải ra nhiều khí CO2 qua việc đốt nhiều nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ, và than đá để cung cấp năng lượng cho nhà ở, nhà máy, máy bay, ô tô. Dưới đây là biểu đồ mô tả sự thay đổi về lượng CO2 trên Trái Đất qua thời gian:
Co2 tang.png
Một số hoạt động gây phát thải khí nhà kính nhiều nhất của con người[19]


Để ý sự tăng đột biến của CO2 ở phần cuối cùng của biểu đồ. Sự gia tăng này bắt đầu khi thế giới trải qua cuộc cách mạng công nghiệp. Chúng ta bắt đầu phá kỷ lục về lượng CO2 trong khí quyền vào năm 1950, và từ lúc đó đến giờ chúng ta chưa hề dừng lại.[20]

Năm 2016, các nhà lãnh đạo thế giới đã ký Thỏa thuận Paris để cam kết hạn chế nhiệt độ chỉ tăng 1,5 độ, hoặc tối đa là 2 (một trong những “điểm tới hạn”), trước năm 2100, và từ đó các quốc gia đặt mục tiêu cho riêng mình về lượng khí CO2 mà họ sẽ thải ra. Nhưng ba năm sau thỏa thuận, mức CO2 toàn cầu vẫn tăng lên, thậm chí còn cao hơn mức trung bình của mười năm qua.

Sự gia tăng về phát thải CO2 nói riêng hay khí nhà kính nói chung có thể được kết nối với thực trạng dân số toàn cầu đang tăng lên nhanh chóng (tăng gấp 3 lần trong 70 năm qua). Với nhiều người hơn, nhu cầu về năng lượng, nơi ở, thức ăn, đồ dùng, phương tiện, thiết bị, v.v. cũng vì thế mà tăng lên, và tất cả những hoạt động để đáp ứng những nhu cầu này đều tạo ra rất nhiều khí nhà kính hơn. Dưới đây là một số nguồn phát thải khí nhà kính chính:

  • Điện và nhiệt: Những bên sản xuất & tiêu thụ điện và nhiệt nhiều nhất là các nhà máy điện, nhà máy hơi nước, nguồn điện và điện công nghiệp, không phải là các hộ gia đình bình thường. Việc đốt than, khí tự nhiên và các nhiên liệu hóa thạch khác đã phát thải lượng khí nhà kính khổng lồ, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các nguồn phát thải khí nhà kính.
  • Nông nghiệp và đất đai: Khoảng 1/5 tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu đến từ việc sử dụng đất đai, chủ yếu là do phá rừng và phát thải từ vật nuôi. Phân loại này cũng bao gồm cả nhiên liệu sử dụng cho nông nghiệp, lâm nghiệp và đánh bắt cá, phát thải trực tiếp vào đất và cháy rừng.
  • Công nghiệp: Sản xuất các sản phẩm cũng tạo ra rất nhiều khí nhà kính. Sản xuất kim loại, sản xuất và sử dụng óa chất, sản xuất xi măng và nhiều sản phẩm khác từ giấy đến chất bán dẫn là những ngành đóng góp đáng kể. Và không chỉ là quá trình làm ra một sản phẩm mới, chất thải mà chúng ta tạo ra trong quá trình đó cũng làm vấn đề trầm trọng hơn.
  • Giao thông vận tải: hầu hết phương tiện giao thông, từ đường bộ, đường biển, đến đường hàng không, đều hoạt động bằng nhiên liệu hóa thạch và tạo ra nguồn CO2 khổng lồ.[21]
  • Sản xuất & tiêu thụ các nguồn năng lượng khác: Trước khi con người kịp tiêu thụ nhiên liệu, chỉ riêng việcv sản xuất và vận chuyển chúng đã phát thải lượng khí thải lớn vào bầu khí quyển. Tinh chế dầu mỏ và rò rỉ khí thải từ các đường ống dẫn khí (đặc biệt là khí mê-tan, một loại khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh gấp khoảng 25 lần so với CO2) là những vấn đề nghiêm trọng và đầy thách thức.
  • Lãng phí thức ăn: Khi lãng phí thực phẩm, chúng ta cũng lãng phí tất cả năng lượng và nước cần thiết để trồng trọt, thu hoạch, vận chuyển và đóng gói lượng thực phẩm này. Không những thế, khí mê-tan cũng sẽ xuất hiện từ việc thức ăn bị đổ ra bãi rác và bị thối rữa.[22]
  • Các tòa nhà thương mại & khu dân dư: Năng lượng được sử dụng trong các tòa nhà thương mại và dân cư, bao gồm hệ thống làm lạnh và điều hòa không khí, thậm chí cả bình chữa cháy, góp phần tạo ra khoảng 6% lượng khí thải toàn cầu.  


6. Con người đã làm gì trước vấn đề nan giải này?

Trước một vấn đề nghiêm trọng với phạm vi ảnh hưởng lớn như vậy, con người phản ứng với nó theo nhiều cách khác nhau. Đa số mọi người đều đã có những đóng góp nhất định vào việc giải quyết biến đổi khí hậu: từ tổ chức các cuộc nghiên cứu, khảo sát để tăng bằng chứng cho biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của nó, nâng cao nhận thức cộng đồng về biến đổi khí hậu; quyên góp, ủng hộ khắc phục những hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra; đến các chiến dịch thuyết phục người tiêu dùng thay đổi thói quen ăn uống, mua sắm, sử dụng năng lượng sạch; cam kết từ các quốc gia để giảm thiểu khí nhà kính hay những chính sách bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường được áp dụng với chế tài xử phạt rõ ràng, v.v. Tất cả những nỗ lực này đều có những hiệu quả nhất định, và nếu muốn thay đổi tương lai về biến đổi khí hậu, những hành động này cần được tiếp tục thực hiện một cách song song, với tần suất và cường độ cao hơn nữa trước khi quá muộn.

Hình minh họa: Jim Inhofe cầm trên tay một cục tuyết ở Thượng viện để chứng tỏ quan điểm “Ngoài trời đang rất, rất lạnh tới nỗi có tuyết" để phủ nhận việc Trái Đất đang nóng lên[23]
Tuy nhiên, vẫn có những người chọn cách phủ nhận sự tồn tại của biến đổi khí hậu. Nhóm này tổ chức những hoạt động truyền bá thông tin sai lệch và có khả năng cản trở sự phát triển của các chính sách về môi trường, khí hậu. Ngành công nghiệp dầu mỏ là một trong số những nhóm đi đầu trong việc phủ nhận biến đổi khí hậu, đồng thời tài trợ nhiều tổ chức, chiến dịch để quảng bá niềm tin này. Đã có bằng chứng cho thấy Exxon - một trong những công ty dầu khí lớn nhất thế giới - đã biết về tình trạng biến đổi khí hậu từ năm 1981, trước cả khi vấn đề này thu hút sự chú ý của dư luận, nhưng 27 năm tiếp sau đó vẫn bỏ ra hàng triệu đô để tài trợ cho các hoạt động phủ nhận biến đổi khí hậu[24] (một ví dụ điển hình là các chiến dịch phủ nhận biến đổi khí hậu của Exxon[25])


Không chỉ những công ty được hưởng lợi từ việc phủ nhận biến đổi khí hậu mới làm việc này, ngay cả chính quyền của một quốc gia cũng không phải ngoại lệ. Có thể kể tới đảng Cộng hòa ở Mỹ - một đảng chính trị có rất nhiều động thái phủ nhận biến đổi khí hậu. Thượng nghị sĩ Jim Inhofe của Mỹ đã gọi biến đổi khí hậu là “trò lừa bịp vĩ đại nhất từng xảy ra với người Mỹ” và tuyên bố có thể lật tẩy "trò bịp" này bằng cách mang theo một quả bóng tuyết và ném xuống sàn Thượng viện. Đồng thời, Hoa Kỳ - dưới nhiệm kỳ của tổng thống Donald Trump, người đứng đầu đảng Cộng hòa vào thời điểm đó, đã rút ra khỏi Thỏa thuận Paris. Một trong những quốc gia gây ô nhiễm lớn nhất thế giới lại phủ nhận sự tồn tại của biến đổi khí hậu, và rất dễ để đoán được lý do đằng sau việc này.

Một vài lập luận thường được sử dụng bởi những người phủ nhận biến đổi khí hậu có thể kể đến như đó là hiện tượng nóng lên không có thật vì vẫn có những nơi lạnh giá; đó là quá trình tự nhiên của Trái Đất; động, thực vật có thể thích ứng dễ dàng, hay thậm chí biến đổi khí hậu là một điều tốt đối với con người. Những lập luận này thường dễ dàng để bác bỏ dựa vào các thông tin, bằng chứng khoa học, nhưng những người này, đáng buồn thay, lại chọn không tin khoa học, hoặc có lý do, động cơ ngầm đằng sau để không tin khoa học.  

Xem thêm về những lập luận được sử dụng bởi những người phủ nhận biến đổi khí hậu và cách để bẻ gãy chúng tại ĐÂY[26] và ĐÂY.[27]  

Tuy nhiên, việc nhiều người công khai phủ nhận biến đổi khí hậu không phải là thủ phạm chính khiến cho chống lại biến đổi khí hậu chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Một trong những cách tiếp cận sai lầm trong việc giải quyết vấn đề này là việc tập trung quá mức vào trách nhiệm của các cá nhân đơn lẻ mà bỏ qua vai trò của các doanh nghiệp, các ngành công nghiệp đang vì lợi nhuận mà bất chấp những nguy cơ làm tình hình biến đổi khí hậu ngày càng tồi tệ hơn.


7. Vì sao trách nhiệm giải quyết biến đổi khí hậu không thể đẩy hoàn toàn cho các các nhân đơn lẻ?

Nếu để ý, chúng ta có thể thấy rằng truyền thông thường tập trung vào những hành động nhỏ lẻ mà cá nhân, hay cụ thể hơn là người tiêu dùng cần phải làm, ví dụ như giảm sử dụng phương tiện cá nhân, tăng rau giảm thịt trong bữa ăn, không sử dụng năng lượng không bền vững, đổi túi nilon thành túi vải khi đi chợ, hay giảm mua sắm, v.v. Chắc chắn rằng những hành động nhỏ có thể tạo ra ý nghĩa lớn, và việc cá nhân đóng góp vào quá trình chống lại biến đổi khí hậu là rất cần thiết, nhưng có hai vấn đề lớn với cách tiếp cận này:

  • Thứ nhất, làm vậy chuyển sự chú ý của dư luận ra khỏi những “tác nhân” lớn nhất, bao gồm các ngành công nghiệp nhiệt-điện hay sản xuất hàng hóa. Theo số liệu đã được thống kê, tỷ lệ đóng góp phát thải khí CO2 ra khí quyển của cá nhân thấp hơn rất nhiều so với các ngành công nghiệp này. Các chiến dịch nâng cao nhận thức hay kêu gọi hành động thường nhắc đi nhắc lại những luận điểm về trách nhiệm cá nhân trong việc ngăn chặn biến đổi khí hậu, nhấn mạnh rằng công chúng phải thay đổi cách thức tiêu dùng của mình, trong khi các ngành công nghiệp sản xuất cũng như truyền thông, quảng cáo đang thúc giục cá nhân tiêu dùng với tốc độ chưa từng thấy. Nhà báo George Monbiot đã mô tả “trách nhiệm cá nhân là một trong những lời nói dối quan trọng nhất từng được nói ra bởi ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch và các công ty PR đưa ra thông điệp của họ.” Việc tập trung vào trách nhiệm cá nhân chuyển trọng tâm ra khỏi những người có năng lực và trách nhiệm lớn nhất để tạo ra sự thay đổi có ý nghĩa.
  • Thứ hai, nếu hệ thống lớn hơn không cho phép, thì rất khó để người tiêu dùng thay đổi thói quen của mình. Thử nghĩ về việc giảm sử dụng phương tiện cá nhân - sẽ thật khó để chuyển đổi sang phương tiện cá nhân nếu nơi đó hệ thống phương tiện công cộng không phát triển hoặc không đáng tin cậy (ví dụ thường xuyên trễ giờ). Hoặc làm sao để thuyết phục người bán hàng ở chợ chuyển sang các loại túi khác thân thiện hơn với môi trường trong khi các lựa chọn khác đều có giá thành cao, không bền, hoặc khó mua? Một lần nữa, biến đổi khí hậu là một vấn đề vô cùng phức tạp, với nhiều mảnh ghép khác nhau, do đó không thể mong đợi chỉ tập trung vào giải quyết một nguyên nhân duy nhất thì vấn đề sẽ biến mất.

Tóm lại, mỗi nguyên nhân, mỗi yếu tố đóng góp vào vấn đề đều cần được chú ý, và mỗi cấu phần có thể cần một chiến lược khác nhau. Điều này nghe có vẻ khó khăn, nhưng với sự cam kết của toàn xã hội, giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu không phải là nhiệm vụ bất khả thi.   


8. Vậy chúng ta có thể làm gì?

Đối với mỗi người, như đã giải thích, chúng ta vẫn có thể thực hiện những hành động cá nhân ý nghĩa để đóng góp vào việc đẩy lùi hoặc ít nhất là giảm nhẹ biến đổi khí hậu, chẳng hạn như ủng hộ các quỹ chống biến đổi khí hậu, đổi sang các thiết bị tiết kiệm năng lượng, tái sử dụng, tái chế, tiêu thụ các sản phẩm từ động vật ít hơn, v.v. Nhưng đồng thời, cá nhân cũng không được quên đi những yếu tố khác đang duy trì vấn đề, như là các công ty sử dụng nhiên liệu hóa thạch để sản xuất, hay những chính phủ chưa mạnh tay với các biện pháp phòng chống biến đổi khí hậu.

Với tư cách là người dân, người tiêu dùng - là cốt lõi của một đất nước, cũng như là người quyết định sự sống còn của những ngành công nghiệp - chúng ta cần phải buộc doanh nghiệp và chính phủ chịu trách nhiệm để từ đó những chính sách hay cách làm việc giảm bớt gánh nặng lên môi trường có thể được thực hiện. Trong sản xuất và phân phối sản phẩm, một vài hành động mà doanh nghiệp có thể làm là cải thiện các dây chuyển để giảm tiêu thụ/ tiêu hao năng lượng, chuyển đổi sang các nguồn năng lượng tái tạo, sử dụng các nguyên liệu thân thiện với môi trường, hay sản xuất vừa đủ với nhu cầu thực sự của khách hàng. Đối với các chính phủ, có thể áp dụng các quy định giới hạn khí thải, chất thải ra môi trường với điều khoản phạt nặng những hành vi vi phạm, đầu tư vào cơ sở hạ tầng chung như các phương tiện giao thông công cộng, hay chuyển đổi sang năng lượng ít phụ thuộc vào nhiên liệu khí đốt; bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên, tránh khai thác quá mức làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái chung, v.v. Tất cả những điều này có thể xảy ra nếu người dân tạo áp lực đủ lớn lên doanh nghiệp và chính phủ thông qua các hành động tập thể. Cá nhân nắm trong tay nhiều quyền lực hơn chúng ta nghĩ, và quyền lực đó cần phải được sử dụng để bảo vệ cho chính cuộc sống mọi người.


Nguồn tham khảo

  1. Education for sustainable development
  2. Climate change (according to a kid)
  3. Species and climate change
  4. What Is Climate Change?
  5. Biến đổi khí hậu, Philippines sơ tán gần 46.000 người, 30 người ở Mỹ mất mạng
  6. Biến đổi khí hậu đe dọa mục tiêu trở thành nước thu nhập trung bình cao của Philippines
  7. Goal 13 infographic
  8. Biến đổi khí hậu: Nỗi sợ mang tên ‘điểm tới hạn’
  9. World on brink of five ‘disastrous’ climate tipping points, study finds
  10. Biến đổi khí hậu tác động nghiêm trọng tới cuộc sống con người - VTV
  11. The Impact of Climate Change in Southeast Asia – IMF Finance & Development Magazine _ September 2018
  12. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu ở Việt Nam
  13. Biến đổi khí hậu
  14. Biến đổi khí hậu và những hậu quả khôn lường
  15. Social Dimensions of Climate Change
  16. Châu Âu, Trung Á: Người nghèo bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu
  17. Biến đổi khí hậu làm nghèo đói thêm trầm trọng
  18. Greenhouse gas emissions
  19. Where do greenhouse gas emissions come from?
  20. Graphic: The relentless rise of carbon dioxide
  21. Nguyên nhân và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
  22. Fight climate change by preventing food waste
  23. Inhofe brings snowball on Senate floor as evidence globe is not warming
  24. ExxonMobil: Gã khổng lồ dầu mỏ biết về biến đổi khí hậu từ thập niên 1970
  25. Exxon’s Climate Denial History: A Timeline
  26. 6 Claims Made by Climate Change Skeptics—and How to Respond
  27. COP26: 4 Hiểu lầm về biến đổi khí hậu cần sáng tỏ

K8: Bất bình đẳng xã hội

Bất bình đẳng: Những người bị bỏ lại phía sau
Bat binh dang.jpg


Khi nhìn bức ảnh này, bạn có suy nghĩ gì? Bức ảnh được chụp ở thành phố Mumbai, Ấn Độ, nêu bật lên sự tương phản giữa cuộc sống của những con người nơi đây. Một bên là những tòa nhà chọc trời, hiện đại, sang trọng; bên còn lại là những căn nhà tạm lụp xụp, cũ kỹ, báo hiệu một điều kiện sống không hề lý tưởng. Câu nói “thành phố hoa lệ, hoa cho người giàu, lệ cho người nghèo” có lẽ đã miêu tả hoàn hảo bức tranh này nói riêng và thực trạng bất bình đẳng nói chung, khi chúng ta đang sống trong một xã hội nơi có những tỷ phú có giá trị tài sản lớn đến mức còn cao hơn cả GDP của một số quốc gia, hoặc đủ tiền để nuôi sống vài thế hệ con cháu tiếp theo của bản thân, nhưng đồng thời cũng có những người khác đang không thể đáp ứng nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống, đang lo lắng về bữa ăn tiếp theo sẽ đến từ đâu, hay liệu con cái của họ có được tiếp tục đi học để có cơ hội cải thiện cuộc sống hay không.

Đáng buồn rằng Ấn Độ không phải là đất nước duy nhất nơi khoảng cách giàu nghèo ngày một nới rộng đang trở thành một vấn đề nhức nhối - thực chất chúng ta có thể nhìn thấy điều đó ở bất kỳ đâu. Với chỉ một cú nhấp chuột tìm kiếm về những khu ổ chuột nổi tiếng trên thế giới, ta có thể dễ dàng thấy sự xuất hiện của chúng ở hàng loạt địa danh thường gắn với sự hào nhoáng, phát triển. Có thể kể đến như khu ổ chuột Guryong ở Seoul (Hàn Quốc), “thành phố nghĩa trang” ở Manila (Philippines), khu ổ chuột Rocinha ở Rio De Janeiro (Brazil), v.v. Chính tại Việt Nam, những khu nhà xập xệ, thiếu vệ sinh, không đạt mọi tiêu chuẩn về điều kiện sống cho con người vẫn là nhà của hàng nghìn người dân, điển hình là các khu dọc kênh Đôi, kênh Tẻ ở thành phố Hồ Chí Minh[1] hay khu “siêu ổ chuột” dưới chân cầu Long Biên ở trung tâm thủ đô Hà Nội.[2]

Xem thêm về một số khu ổ chuột lớn nhất thế giới tại ĐÂY[3]

Biểu hiện của bất bình đẳng thường thể hiện rõ nhất ở khía cạnh kinh tế, tuy nhiên có rất nhiều loại bất bình đẳng khác được tạo ra bởi con người đã và đang được duy trì, đẩy những người yếu thế ngày một xa về phía sau. Tỉ phú Bill Gates đã từng nói “cuộc sống không công bằng, hãy làm quen với điều đó,” nhưng liệu chúng ta có nên quen (hay nói cách khác là chấp nhận) có những con người đang sống trong cảnh cùng cực, vì sự khác biệt mà bị phân biệt đối xử, bị tước quyền lợi chính đáng, không có cả cơ hội để đạt đến một cuộc sống tốt hơn hay không? Liệu một xã hội có thể phát triển một cách bền vững khi một bộ phận người dân không có khả năng đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của con người như thức ăn, nước sạch, nơi ở, giáo dục hay không? Hãy cùng tìm hiểu sau đây.  


1. Bất bình đẳng là gì?

Hiểu theo đúng nghĩa của từ ngữ, “bất bình đẳng” ám chỉ bất kỳ sự không ngang bằng hoặc không đồng đều giữa các cá nhân với nhau. Thế nhưng đây là một định nghĩa quá rộng, vì theo cách giải thích này, vấn đề “bất bình đẳng” sẽ mất đi tính cấp thiết của nó. Ví dụ, người A khi đi công tác được ở khách sạn 5 sao, trong khi người B chỉ được ở khách sạn 4 sao - vậy có được coi là bất bình đẳng không? Hay tiếp viên hàng không lương khoảng 25 triệu/tháng, và quản lý khách sạn 20 triệu/tháng, thì liệu đây có phải là biểu hiện của bất bình đẳng? Tóm lại, bất bình đẳng, với tư cách là một vấn đề toàn cầu, cần phải có một định nghĩa cụ thể hơn, nêu bật được sự bất công không đáng có đang tồn tại giữa các cá nhân.

Trong Chương trình GCED, "bất bình đẳng" nên được hiểu là sự thiếu hụt cơ hội để một người có thể sống một cuộc sống tử tế, có phẩm giá. Tuy là một khái niệm chủ quan có thể thay đổi tùy vào niềm tin của văn hóa, xã hội, hay cá nhân, “cuộc sống tử tế” thường bao gồm khả năng tiếp cận các nhu cầu cơ bản như thực phẩm, chỗ ở, quần áo, và chăm sóc sức khỏe - những yếu tố quyết định sự sống còn của con người. Ngoài ra, nó cũng bao gồm cả khả năng tiếp cận giáo dục, cơ hội việc làm, quyền tự do thể hiện bản thân, quyền tham gia vào quá trình quyết định mà không sợ bị phân biệt đối xử hoặc ngược đãi. Cuối cùng, cảm thấy mình thuộc về một cộng đồng và gắn kết với người khác cũng đóng góp vào định nghĩa của một cuộc sống tử tế.

Có thể thấy những yêu cầu về một cuộc sống tử tế theo định nghĩa trên thực sự không có gì cao siêu hay xa xỉ, và đó nên được nhìn nhận là quyền lợi đương nhiên, chính đáng của tất cả mọi người, không phụ thuộc vào tuổi tác, giới tính, khuyết tật, sắc tộc, nguồn gốc, tôn giáo, địa vị kinh tế - xã hội, v.v.[4] Xã hội ngày càng phát triển; kinh tế, công nghệ đang ở đỉnh cao, chúng ta đang tạo ra lượng của cải vật chất khổng lồ, nhưng không phải ai trên thế giới cũng được đảm bảo sự công bằng đề đạt được một cuộc sống tử tế: hàng ngày đều có phụ nữ và trẻ em chết do các bệnh phòng ngừa được như lao, sởi, hoặc trong quá trình sinh con vì không được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Người già, người di cư, và người tị nạn phải đối mặt với tình trạng thiếu cơ hội và bị phân biệt đối xử. Cứ năm người thì có một người cho biết đã từng bị phân biệt đối xử vì ít nhất một trong những lý do phân biệt đối xử bị luật nhân quyền quốc tế nghiêm cấm. Trong số những người khuyết tật, cứ 10 người thì có 3 người bị phân biệt đối xử, và tỷ lệ này còn cao hơn ở phụ nữ khuyết tật.[5]

Một cách chung nhất, bất bình đẳng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội và kết quả đầu ra của một người. Hay nói một cách khác, bất bình đẳng biểu hiện rõ nhất ở sự bất bình đẳng cơ hội và bất bình đẳng về kết quả giữa những nhóm người khác nhau. Bất bình đẳng về cơ hội tập trung vào sự khác biệt trong việc tiếp cận các nguồn lực, dịch vụ, quyền hoặc cơ hội để một người có thể đạt được tiềm năng của mình mà không phụ thuộc vào các yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của họ, như là giới tính, chủng tộc, sắc tộc, hoàn cảnh của cha mẹ, hoặc nơi sinh. Trong khi đó, bất bình đẳng về kết quả đề cập đến sự khác biệt về thu nhập, sự giàu có, sức khỏe, giáo dục, hoặc các chỉ số khác về hạnh phúc giữa các cá nhân hoặc nhóm trong xã hội.


2. Ảnh hưởng của bất bình đẳng tới con người & xã hội là gì?

Một xã hội bất bình đẳng không chỉ ảnh hưởng đến những người nghèo, những người bị đối xử bất công mà sẽ tác động đến toàn xã hội nói chung. Dưới đây là tác động của bất bình đẳng nói chung lên nhiều khía cạnh khác nhau của xã hội[6]:

  • Kinh tế: Nghiên cứu đã chứng minh rằng các xã hội kém bình đẳng hơn có nền kinh tế kém ổn định hơn. Mức độ bất bình đẳng thu nhập cao có liên quan đến sự bất ổn kinh tế, khủng hoảng tài chính, nợ và lạm phát. Ngoài ra, năng suất của người lao động cũng bị ảnh hưởng bởi việc họ có tin rằng mức lương của họ là công bằng hay không, do đó, việc trả lương quá cao cho các vị trí quản lý cấp cao khiến người lao động cảm thấy bất công, thì năng suất và sự cam kết sẽ giảm. Năng suất của người lao động còn sẽ thấp hơn nữa nếu lương của họ thấp đến nỗi họ phải vật lộn để trang trải những chi phí cơ bản trong cuộc sống.
  • Dịch chuyển xã hội và giáo dục: Bất bình đẳng thu nhập liên quan chặt chẽ đến khả năng dịch chuyển xã hội (sự thay đổi vị trí/vị thế trong xã hội theo thời gian của một cá nhân hay hộ gia đình). Con cái của những gia đình có thu nhập cao có nhiều khả năng để sau này có được công việc được trả lương cao hơn con cái của những gia đình có thu nhập thấp. Giáo dục thường được coi là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự dịch chuyển xã hội. Cơ hội để dịch chuyển xã hội có thể bị giảm ở các quốc gia có mức độ bất bình đẳng cao hơn vì kết quả giáo dục của các quốc gia này thường cũng thấp hơn. Nghiên cứu đã tìm thấy ở các nước có mức độ bất bình đẳng càng cao, thì học sinh ở nước đó càng có kết quả học tập thấp hơn.
  • Sức khỏe: Các xã hội bình đẳng hơn thường có tuổi thọ cao hơn, tỷ lệ tử vong thấp hơn ở cả người trưởng thành và trẻ sơ sinh, và tỷ lệ mắc các bệnh tâm thần, béo phì thấp hơn. Một trong những cách giải thích cho tình trạng này là “sự lo lắng về địa vị (xã hội)”: bất bình đẳng đặt mọi người vào một hệ thống thứ bậc, làm tăng sự cạnh tranh đề địa vị và gây ra căng thẳng, từ đó dẫn đến tình trạng sức khỏe kém và các vấn đề sức khỏe tiêu cực khác. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao có thể bị gây ra bởi căng thẳng người mẹ phải trải qua khi mang thai và khi mới sinh, và/hoặc tình trạng kinh tế-xã hội của cha mẹ đứa trẻ.
  • Sự gắn kết xã hội: người dân ở các quốc gia kém bình đẳng ít quan tâm đến chính trị hơn, ít tin tưởng hơn vào quốc hội của họ, và ít có khả năng hơn để tin rằng hầu hết mọi người đều đáng tin cậy. Sự thiếu tin tưởng này xuất phát từ việc bất bình đẳng làm gia tăng khoảng cách xã hội giữa một cá nhân và các thành viên khác trong xã hội, khiến cá nhân tin rằng những người khác không có điểm chung với mình. Điều này khiến cá nhân ít có khả năng tin tưởng hay xây dựng mối quan hệ với những người xung quanh. Mức độ tin cậy thấp và thiếu hụt vốn xã hội ngăn cản sự hình thành các mối quan hệ bền vững cần thiết cho một cuộc sống ổn định.


3. Có những loại bất bình đẳng phổ biến nào?

Bất bình đẳng là một mối quan tâm lớn trên toàn cầu, và có nhiều loại bất bình đẳng khác nhau đang xảy ra song song. Nổi bật có thể kể đến như bất bình đẳng kinh tế, bất bình đẳng giới, bất bình đẳng sắc tộc - văn hóa, bất bình đẳng tầng lớp/giai cấp, bất bình đẳng tuổi tác, v.v. Mỗi loại bất bình đẳng lại có những đặc điểm và thử thách riêng. Hãy cùng điểm qua một số loại bất bình đẳng tiêu biểu:


Bất bình đẳng kinh tế

Bất bình đẳng kinh tế là sự chênh lệch trong phân bổ của cải, vật chất, thu nhập trong một xã hội. Hiện tượng này đã tồn tại từ những xã hội loài người đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử, và đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có bất kỳ đất nước hay vùng lãnh thổ nào đạt được bình đẳng kinh tế hoàn toàn.[7] Đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ bất bình đẳng kinh tế không ai khác chính là người nghèo. Những người này thường đã phải chịu cảnh nghèo đói qua nhiều thế hệ, có thu nhập thấp, thiếu cơ hội học tập, việc làm, chăm sóc sức khỏe, hoặc ở vùng sâu vùng xa.

Biểu hiện nổi cộm nhất của bất bình đẳng kinh tế là thu nhập và của cải ngày càng tập trung ở tầng lớp thượng lưu: một báo cáo của Oxfam cho thấy vào năm 2018, 26 người giàu nhất thế giới nằm giữ khối tài sản bằng tổng tài sản của một nửa dân số toàn cầu (3,8 tỷ người nghèo nhất). Trong 10 năm kể từ cuộc khủng hoảng tài chính, số lượng tỷ phú đã tăng gần gấp đôi và tài sản của giới siêu giàu trên thế giới đã đạt mức kỷ lục. Thu nhập của giới thượng lưu tăng nhanh đang thúc đẩy và làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng thu nhập.[8]

Có người cho rằng bất bình đẳng kinh tế là tương đối dễ hiểu, ví dụ như số tiền mà một người kiếm được, hoặc chất lượng cuộc sống mà họ có là phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực và lựa chọn thông minh. Nhưng trên thực tế, tiềm năng của một người để đạt được kết quả này vẫn phụ thuộc vào những yếu tố được quyết định từ khi họ sinh ra mà hoàn toàn nằm ngoài quyền kiểm soát của cá nhân, như là giới tính, hoàn cảnh gia đình, nơi sinh, màu da, v.v. Những yếu tố này có thể khiến một bộ phận người dân rơi vào cảnh nghèo đói và không thoát ra được, đồng thời giảm khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản như nước sạch, giáo dục, y tế. Không những vậy, những khoảng cách trong các lĩnh vực mới hơn đang dần xuất hiện, chẳng hạn như khả năng tiếp cận công nghệ trực tuyến và di động. Những bất bình đẳng trong cơ hội như vậy dẫn đến bất bình đẳng trong kết quả/đầu ra, hay cụ thể hơn ở đây là tình trạng kinh tế của một người hay một hộ gia đình.

Một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên mức độ giàu có khác nhau là mọi người được trả mức lương khác nhau. Mọi người thường tin rằng khả năng bẩm sinh hay lựa chọn cá nhân có vai trò quyết định sự giàu có của một cá nhân, từ trí thông minh, quyết tâm, đến ưu tiên trong cuộc sống, hay thậm chí thói quen của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, chắc chắn đó không phải là tất cả. Còn rất nhiều yếu tố khác đã và đang duy trì bất bình đẳng thu nhập mà cá nhân không thực sự có quyền kiểm soát:

  • Thiếu tiếp cận với giáo dục chất lượng: càng sở hữu một kỹ năng ít người sở hữu nhưng lại được đánh giá cao và săn đón bởi các nhà tuyển dụng thì một người có thể nhận được mức lương càng cao. Tuy nhiên, phần lớn những kỹ năng đó không phải là bẩm sinh - chúng là kết quả của một quá trình dài học tập, đào tạo mà không phải ai cũng có cơ hội để tiếp cận. Với những người vốn đã chật vật với cuộc sống tối thiểu, giáo dục, trau dồi kỹ năng không thể đứng ở vị trí ưu tiên - thời gian đáng lẽ ra nên dành cho giáo dục sẽ phải chia sẻ cho việc bươn chải kiếm tiền. Do đó, một người có trình độ học vấn cao hơn thì thường có nhiều kỹ năng nâng cao hơn mà chỉ một số ít người lao động khác có thể cung cấp, lý giải cho mức lương cao hơn. Không những vậy, có cùng trình độ học vấn (ví dụ như hoàn thành phổ thông, hay có bằng đại học) không có nghĩa là nhận được chất lượng giáo dục như nhau (ví dụ học sinh học trường ở miền núi VS. học sinh học trường quốc tế song ngữ), hay hỗ trợ học thuật trong suốt khoảng thời gian đó là như nhau (ví dụ học sinh có gia sư riêng vs. học sinh tự học 100%). Do vậy, bất bình đẳng kinh tế không chỉ đến từ khả năng tiếp cận với giáo dục, mà còn bắt nguồn từ chất lượng giáo dục mà con người nhận được.
  • Giới tính tác động đến thu nhập: Ở nhiều quốc gia, tồn tại khoảng cách thu nhập giữa hai giới trong thị trường lao động. Số liệu cho thấy trên khắp thế giới, đàn ông có xu hướng kiếm được nhiều tiền hơn phụ nữ. So với nam giới, phụ nữ thường nắm giữ ít các vị trí cấp cao trong các công ty/tổ chức hơn, nhưng lại xuất hiện quá nhiều trong các công việc được trả lương thấp, thậm chí không lương (ví dụ như chăm sóc gia đình). Phụ nữ và trẻ em gái dành 12,5 tỷ giờ để làm các công việc “không tên” liên quan đến chăm sóc gia đình không lương mỗi ngày. Phụ nữ phải dành nhiều thời gian mang thai, chăm sóc con cái, gia đình hơn, từ đó có ít thời gian, sức lực hơn để làm việc hay cải thiện thu nhập. Đồng thời, đã có nhiều trường hợp người sử dụng lao động ưu tiên trao cơ hội thăng tiến hoặc giữ các vị trí chủ chốt cho nam giới vì lo lắng rằng phụ nữ vướng bận gia đình sẽ ảnh hưởng tới công việc. Những yếu tố này tác động trực tiếp đến khả năng cải thiện thu nhập của phụ nữ, từ đó dẫn đến những bất bình đẳng kinh tế không đáng có giữa hai giới.
  • Tăng trưởng công nghệ cũng làm gia tăng khoảng cách thu nhập: tăng trưởng công nghệ được cho là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở mọi cấp độ kỹ năng. Máy tính và máy móc đã thay thế rất nhiều những nhiệm vụ của lao động phổ thông, thậm chí còn hoạt động hiệu quả và có năng suất cao hơn, ví dụ như đóng gói và sản xuất. Không chỉ lao động phổ thông, lao động lành nghề cũng có nguy cơ mất việc làm do công nghệ: sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo cho phép máy tính và robot làm các công việc mang tính tư duy cao. Nhưng trên thực tế, lao động phổ thông vẫn bị ảnh hưởng nặng nề hơn bởi sự đổ bộ của công nghệ, vì thị trường lao động vẫn cần người lao động có kỹ năng cao để sử dụng và vận hành máy móc tiên tiến. Do đó, khoảng cách thu nhập giữa những người lao động ngày càng nới rộng.
  • Của cải mới thường được tạo ra và nắm giữ bởi những cá nhân vốn đã giàu có. Lý do rất đơn giản: những người đã có sẵn của cải mới có thể sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi để đầu tư hoặc tích lũy để tạo ra của cải mới. Những người không không có của cải, hoặc những gì họ làm ra chỉ vừa đủ để trang trải cuộc sống hàng ngày, sẽ không thể có khả năng tạo ra thêm của cải vật chất thông qua cách của người giàu. Không những vậy, ảnh hưởng của sự tập trung của cải này có thể “di truyền” qua thế hệ tiếp theo. Trẻ em sinh ra trong một gia đình giàu có sẽ có lợi thế về kinh tế nhờ vào tài sản được thừa kế hoặc nhận được giáo dục chất lượng, và điều này làm tăng cơ hội kiếm được thu nhập cao hơn so với con em của những gia đình khó khăn. Quá trình tập trung của cải vào tầng lớp thượng lưu được cho là nguyên nhân khiến bất bình đẳng kinh tế trở thành một vòng lặp khó phá vỡ.  


Bất bình đẳng giới

Lưu ý: Phần này của văn bản chỉ tập trung phân tích sự bất bình đẳng giữa hai giới tính được coi là truyền thống nhất: nam giới và nữ giới. Những phân tích này sẽ tạm thời không đề cập đến sự bất bình đẳng trong xu hướng tính dục, cụ thể hơn là sẽ chưa chạm tới sự phân biệt đối xử mà cộng đồng LGBT+ đang trải qua. Đây không phải là một sự phủ nhận tình trạng bất bình đẳng đã và đang xảy ra với cộng đồng này; tuy nhiên độ dài giới hạn của văn bản sẽ không đủ thể phân tích sâu vấn đề. Thầy cô có thể đọc thêm về bất bình đẳng trong cộng đồng LGBT+ tại một số đường dẫn sau:
  • (Vietcetera) Cộng đồng LGBT+: Khi việc bảo vệ quyền lợi bị gắn mác “làm quá”[9]
  • (Báo Pháp luật) Thúc đẩy bình đẳng giới cho cộng đồng LGBT+[10]


Bất bình đẳng giới là khi nam giới và phụ nữ không được đối xử bình đẳng, không nhận được quyền lợi tương đương nhau chỉ dựa trên sự khác biệt về giới tính. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đang hướng đến một xã hội lý tưởng nơi đàn ông và phụ nữ phải được đối xử giống hệt nhau (ví dụ như đàn ông được cởi trần ra đường thì phụ nữ cũng có thể cởi trần ra đường, hay phụ nữ cũng nên làm việc bê vác nặng nhọc chỉ để “ngang hàng” với đàn ông.) “Bình đẳng” ở đây nên được hiểu là dù một người có thuộc giới tính nào, thì họ cũng có cơ hội để có một cuộc sống tử tế và được trao quyền để làm những điều mà bản thân thực sự mong muốn, chứ không chỉ đơn thuần là phục tùng một định kiến giới nào đó.

Phụ nữ thường là đối tượng bị ảnh hưởng bởi bất bình đẳng nhiều nhất. Cách đối xử khác biệt có thể nảy sinh từ sự khác biệt về sinh học, tâm lý học, hoặc các chuẩn mực văn hóa phổ biến trong xã hội. Bất bình đẳng giới không chỉ dừng lại ở tranh cãi nhỏ nhặt như “ai nên rửa bát?”, hay “liệu có nên cho trẻ em sử dụng màu trung lập giới tính?” - bất bình đẳng giới có ảnh hưởng thực tế và trực tiếp đến cơ hội để thành công trong học tập và trong cuộc sống của trẻ em gái và phụ nữ. Dưới đây là một vài con số quan trọng về tình hình bất bình đẳng giới trên thế giới:

  • Trong số gần 800 triệu người mù chữ trên thế giới, phụ nữ chiếm hơn 2/3[11].
  • Trên toàn cầu, 24% trẻ em gái vị thành niên trong độ tuổi 15-19 không nhận được giáo dục - đào tạo, hoặc không có việc làm, trong khi tỉ lệ đối với trẻ em trai cùng độ tuổi là 13%.[12]
  • Ở 86 quốc gia, phụ nữ phải đối mặt với một số hình thức hạn chế việc làm (ví dụ như không được vận hành xe buýt, tàu hỏa, các công việc liên quan đến khai thác than, v.v.) và 95 quốc gia không đảm bảo trả lương bình đẳng cho công việc giống nhau.[13]
  • 12 triệu bé gái kết hôn mỗi năm trước 18 tuổi, tương đương với 33.000 bé gái mỗi ngày, hoặc cứ hai giây lại có một bé gái tảo hôn. Lý giải cho tảo hôn đa dạng giữa các cộng đồng, nhưng thường là do con gái không được đánh giá cao bằng con trai, và việc gả con gái đi khi chúng còn trẻ sẽ chuyển gánh nặng kinh tế sang một gia đình khác.[14]


Khó có thể chỉ ra chính xác đâu là nguyên nhân gốc rễ dẫn đến sự bất bình đẳng về giới, chỉ biết rằng có những yếu tố đã và đang duy trì vấn đề này. Hai yếu tố thường được đề cập đến nhiều nhất khi bao gồm sinh học và quy tắc xã hội.[15]

Về mặt sinh học, đàn ông nhìn chung có thể chất vượt trội hơn phụ nữ, vậy nên thường có thể làm những nhiệm vụ nặng nhọc hơn, nguy hiểm hơn, và những nhiệm vụ ấy thường mang lại “phần thưởng” mang tính vật chất lớn hơn (ví dụ như đi săn bắt thời tiền sử, hoặc lao động kiếm tiền ở thời bây giờ). Trong khi đó, chỉ có phụ nữ có khả năng mang thai, sinh con, và cho con bú, nên phụ nữ sẽ nghiễm nhiên đảm nhận nhiệm vụ liên quan đến chăm sóc con cái và gia đình. Nhưng chính những thứ được coi là “thiên chức” này lại giới hạn cơ hội để phụ nữ lao động và tạo ra của cải vật chất, từ đó nhận được ít sự tôn trọng hơn trong gia đình cũng như xã hội.  

Những sự khác biệt về mặt sinh học dẫn đến việc xã hội đối xử với đàn ông và phụ nữ khác nhau: mỗi giới đều được gán cho những mong đợi, quy tắc, đặc điểm riêng biệt. Nhẹ thì có phụ nữ thì phải dịu dàng, thùy mị; đàn ông phải mạnh mẽ, không được để cảm xúc lấn át. Nặng thì có phụ nữ không cần phải học hành, không cần phải đi làm, chỉ cần sinh con đẻ cái chăm sóc gia đình là được; còn đàn ông thì phải đóng vai trò trụ cột gia đình về mặt tài chính, và sẽ là người có tiếng nói nhất trong những quyết định trong gia đình. Những mong đợi, quy tắc này được cha mẹ dạy cho con cái, từ thế hệ này sang thế hệ khác, ăn sâu vào suy nghĩ của con người, trở thành một loại “truyền thống” khó có thể xóa bỏ.

Nói như vậy không có nghĩa là nam giới không chịu những tác động tiêu cực của bất bình đẳng giới. Bởi xã hội luôn đặt ra và duy trì những mong đợi nhất định đối với nam giới, họ chịu nhiều áp lực để trở thành “người đàn ông thực thụ,” phải mạnh mẽ về thể chất và tinh thần, và phải mang lại nguồn thu nhập chính cho gia đình. Điều này cũng góp phần giới hạn lựa chọn nghề nghiệp của họ, ngăn cản họ làm những công việc mang tính nữ cao (như giáo viên mầm non, y tá/điều dưỡng), hay ngăn cản họ tìm kiếm tư vấn tâm lý hoặc chia sẻ các vấn đề của họ với bạn bè hoặc gia đình để giữ hình tượng mạnh mẽ. Dù là với giới nào, vai trò giới (gender roles) và định kiến giới (stereotypes) vẫn đem lại những ảnh hưởng tiêu cực nhất định và khiến cuộc sống khó khăn hơn mức cần thiết.   

Chắc chắn rằng phụ nữ và đàn ông có những điểm khác biệt nhất định, và có những công việc, nhiệm vụ mà một giới sẽ làm tốt hơn giới còn lại, dẫn đến có sự thiếu tương đồng về mong đợi hay cách đối xử. Tuy nhiên, sự khác biệt này không bao giờ nên trở thành lời bào chữa cho việc một giới khổ hơn hay không có nhiều cơ hội trong cuộc sống như giới còn lại.


Bất bình đẳng chủng tộc, sắc tộc

Chủng tộc và sắc tộc là hai khái niệm thường được sử dụng để phân chia các nhóm người. Dù có nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau, một cách đơn giản nhất, “chủng tộc” phân loại con người dựa vào đặc tính di truyền (ví dụ như màu da, đặc tính khuôn mặt, kiểu tóc, v.v.) , còn sắc tộc (hoặc “dân tộc”) thì tập trung vào khía cạnh đặc tính xã hội, ví dụ như những người được coi là cùng sắc tộc thường có chung di sản văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ, nghi lễ, trang phục, v.v. Một số chủng tộc, sắc tộc nhất định thường chịu thiệt thòi ngay ở cả những quốc gia có nỗ lực đặc biệt để thúc đẩy sự hòa nhập của họ. Các nhóm chủng tộc, sắc tộc yếu thế vốn đã bắt đầu với ít tài sản hơn và ít các mối quan hệ xã hội hơn các nhóm khác, đồng thời thường xuyên chịu những định kiến và phân biệt đối xử, khiến họ khó tiếp cận với cơ hội để thay đổi cuộc sống.   

Sau đây là nghiên cứu trường hợp về bất bình đẳng chủng tộc/sắc tộc tại Hoa Kỳ và Việt Nam.


Hoa Kỳ - Các nhóm chủng tộc[16]

Bất bình đẳng chủng tộc là một vấn đề dai dẳng ở Hoa Kỳ trong nhiều thế kỷ. Bất chấp những tiến bộ đáng kể trong những thập kỷ gần đây, sự chênh lệch về thu nhập, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, và tư pháp hình sự vẫn tồn tại giữa các nhóm chủng tộc, trong đó người Mỹ gốc Phi và các nhóm thiểu số khác thường phải chịu những bất công đến từ sự bất bình đẳng này.

Một trong những biểu hiện rõ ràng và nổi bật nhất của bất bình đẳng chủng tộc là trong hệ thống tư pháp hình sự. Người Mỹ gốc Phi dù chỉ chiếm 13% tổng dân số Hoa Kỳ, nhưng chiếm khoảng 40% tổng số tù nhân. Sự chênh lệch này bắt nguồn từ các hoạt động trị an có tính phân biệt đối xử (như khám xét người da đen vì màu da của họ) và định kiến của các thẩm phán và bồi thẩm đoàn. Hậu quả của sự đối xử bất bình đẳng này không chỉ dừng lại ở việc bị bỏ tù - với hồ sơ bị đánh dấu “phạm tội” sẽ khiến các cá nhân da màu ấy khó tìm nhà ở, khó xin được việc làm, và khó tiếp cận các cơ hội trong cuộc sống.

Một lĩnh vực khác mà sự bất bình đẳng chủng tộc được thể hiện rõ ràng là giáo dục. Chênh lệch trong kết quả học tập của học sinh Mỹ trắng và học sinh Mỹ da màu đã tồn tại dai dẳng trong nhiều thập kỷ. Theo Đánh giá Tiến bộ Giáo dục Quốc gia (NAEP) vào năm 2019, 44% học sinh lớp 4 da trắng đạt mức thông thạo trở lên đối với môn Đọc hiểu, nhưng con số này ở học sinh lớp 4 da đen chỉ là 20% và gốc Tây Ban Nha là 23%. Không chỉ là điểm số, tỷ lệ tốt nghiệp của học sinh da màu luôn thấp hơn so với học sinh da trắng: năm 2018, tỷ lệ tốt nghiệp của học sinh da trắng là 88%, trong khi với học sinh da đen và gốc Tây Ban Nha lần lượt là 79% và 81%. Những khoảng cách đáng quan ngại này thường bị gây ra và duy trì bởi sự phân biệt đối xử ngay trong trường học (như là kỳ vọng thấp từ giáo viên, kỷ luật khắc nghiệt hơn, hay ít được tiếp cận các lớp nâng cao), tình trạng nghèo đói dẫn đến ít được tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ và giáo dục chất lượng, hay thiếu sự cân nhắc đến đối tượng học sinh không phải da trắng trong chương trình học và phương pháp giảng dạy (những học sinh này có thể đến từ các nền văn hóa khác). Với điểm xuất phát giáo dục đã thấp hơn bạn bè đồng trang lứa da trắng, trẻ em da màu người Mỹ có ít cơ hội hơn để thu hẹp khoảng cách trong chất lượng sống.

Bất bình đẳng chủng tộc cũng thể hiện trong chăm sóc sức khỏe. Người Mỹ gốc Phi và các nhóm thiểu số khác phải đối mặt với tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính (như tiểu đường, bệnh tim, và tăng huyết áp) cao hơn, cũng như tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và tử vong ở bà mẹ cao hơn. Những chênh lệch này được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố, bao gồm khả năng tiếp cận hạn chế với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chất lượng chăm sóc thấp hơn, hay thiếu điều kiện kinh tế để chi trả cho các dịch vụ y tế (người Mỹ gốc Phi và các nhóm thiểu số khác có xu hướng có thu nhập thấp hơn và tỷ lệ nghèo cao hơn so với da trắng). Những chênh lệch về chăm sóc sức khỏe này có thể dẫn đến tình trạng sức khỏe kém hơn, tuổi thọ ngắn hơn đối với các nhóm sắc tộc thiểu số.

Người Mỹ da đen không phải là nạn nhân duy nhất của phân biệt chủng tộc - thực tế, đây cũng là một vấn đề nổi cộm đối với những nhóm người được coi là thiểu số khác, như người Mỹ gốc Á, bản địa (thổ dân da đỏ), và gốc Tây Ban Nha. Các nhóm này cũng phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và định kiến dựa trên sắc tộc/chủng tộc của họ, cản trở khả năng tham gia vào xã hội cũng như sự phát triển của họ nói chung:

  • Người Mỹ gốc Á thường chịu những định kiến và sự bài ngoại. Ví dụ, có thể tìm thấy các nghiên cứu cho thấy người Mỹ gốc Á được nhìn nhận là “người nước ngoài vĩnh viễn” (perpetual foreigners - những người có mối liên hệ chặt chẽ hơn với quốc gia gốc của họ hơn là với Hoa Kỳ, rằng họ sẽ không bao giờ hòa nhập/thích nghi hoàn toàn với cuộc sống ở Mỹ, và do đó sẽ bị đối xử như những công dân hạng hai), không phải là người Mỹ, bất kể quốc tịch hay tình trạng nhập cư của họ.[17]
  • Người Mỹ bản địa (thổ dân da đỏ) đã và đang phải đối mặt với tình trạng bị gạt ra ngoài lề (marginalized), dẫn đến việc hạn chế tiếp cận các nguồn lực như nước sạch, nhà ở, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, và cơ hội kinh tế, thậm chí đe dọa xóa bỏ văn hóa, bao gồm bản sắc, ngôn ngữ, truyền thống và giá trị văn hóa.[18]
  • Người Mỹ gốc Tây Ban Nha cũng gặp tình trạng phân biệt chủng tộc, ảnh hưởng đến cơ hội trong cuộc sống và cảm giác thuộc về của họ. Nhóm người này đối mặt với việc bị trục xuất bất hợp pháp, sự phân biệt đối xử trong trường học, bạo hành bởi đám đông, và thậm chí là bị treo cổ. Người Mỹ gốc Tây Ban Nha cũng thường bị gắn với những thành kiến như lười biếng, kém thông minh, ngoại quốc.[19]


Việt Nam - Dân tộc thiểu số

Việt Nam được coi là một quốc gia đa dân tộc, bao gồm 54 dân tộc anh em. Dân tộc Kinh chiếm 85,4% dân số Việt Nam, tương đương 78,32 triệu người. 53 dân tộc còn lại chỉ chiếm 14,6% dân số cả nước.

Đồng bào các DTTS thường tập trung vào các vùng núi và vùng sâu vùng xa, tuy nhiên họ cũng phân bố rải rác trên toàn lãnh thổ Việt Nam do chiến tranh và di cư. Vị trí địa lý đóng vai trò quan trọng trong các tập tục văn hóa của các DTTS, song cũng đồng thời tạo ra những rào cản trong việc tiếp cận cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công như y tế và giáo dục. 72% DTTS không có nhà vệ sinh đạt chuẩn, và hơn ¼ số hộ DTTS không được tiếp cận với nguồn nước hợp vệ sinh

Trình độ văn hóa, đặc biệt là tỷ lệ biết chữ có khác biệt lớn giữa các nhóm DTTS. Tỷ lệ trung bình cho 53 DTTS là 79,8%, tuy nhiên con số này biến thiên từ mức thấp nhất là 34,6% với dân tộc La Hủ, tới cao nhất là các dân tộc Thổ, Mường, Tày và Sán Dìu đạt 95%. Tỷ lệ người lao động là DTTS đã qua đào tạo bằng 1/3 của cả nước.

Một trong những rào cản của giáo dục ở vùng cao chính là khoảng cách địa lý. Nhiều học sinh người DTTS phải đi một quãng đường xa để tới trường phổ thông, thường rơi vào khoảng từ 9 km thậm chí lên tới 70 km. Thêm vào đó, người được đi học chủ yếu vẫn là nam giới, do tư tưởng lỗi thời “trọng nam khinh nữ”  vẫn còn tồn tại ở đồng bào DTTS.

Các dân tộc thiểu số cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ nghèo đói. Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực giảm nghèo nhưng tỷ lệ nghèo và cận nghèo của các hộ dân tộc thiểu số đang cao gấp 3,5 lần tỷ lệ nghèo và cận nghèo chung của toàn quốc. Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo và cận nghèo ở khu vực biên giới cao gấp 1,5 lần khu vực khác; ở khu vực nông thôn cao xấp xỉ 4 lần khu vực thành thị. Một số dân tộc: Co, Xinh Mun, La Hủ, Chứt, Mảng, Pà Thẻn có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo trên 70%; dân tộc Chứt có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo gần 90%. Ngoài các dân tộc trên, cả nước vẫn còn 21 dân tộc có tỷ lệ hộ nghèo chiếm hơn một nửa, trong đó có dân tộc Mông - một trong số ít dân tộc thiểu số có dân số đông nhất (trên 1 triệu người) nhưng số hộ nghèo, cận nghèo chiếm đến 2/3.[20]

Dù chưa được nghiên cứu và thu thập dữ liệu một cách hệ thống, đầy đủ, không thể phủ nhận rằng phân biệt sắc tộc có tồn tại ở Việt Nam. Người dân tộc thiểu số thường bị gắn với những đặc điểm không mấy tích cực, như lười biếng, khó tiếp thu, hay không “văn minh”, và điều này khiến họ bị bắt nạt, bị coi thường, bị ép buộc chấp nhận văn hóa của số đông một cách cứng nhắc. Có thể đọc thêm những phân tích của một “người dân tộc thiểu số” về vấn đề này qua bài viết Phân biệt chủng tộc trong mục “Góc nhìn” của VNExpress.[21]


4. Mối liên kết giữa các loại bất bình đẳng

Từ mô tả và ví dụ về những loại bất bình đẳng phía trên, có thể thấy những biểu hiện này luôn có sự tương tác, kết nối với nhau, thậm chí thúc đẩy lẫn nhau, khiến cho tình hình trở nên tồi tệ hơn đối với những người bị đối xử bất bình đẳng. Một vài ví dụ:

  • Bất bình đẳng kinh tế và bất bình đẳng giới: phụ nữ và trẻ em gái thường không được đầu tư vào giáo dục nhiều như đàn ông và trẻ em trai, dẫn đến cơ hội việc làm hạn chế hơn, thu nhập cũng thấp hơn. Và vì phụ nữ có sự lép vé về kinh tế hơn nam giới nói chung, điều này có thể dẫn đến sự thiếu tôn trọng trong gia đình đối với phụ nữ (bất bình đẳng giới). Không những vậy, điều này cũng khiến phụ nữ khó để đạt được tài chính ổn định, đầu tư vào giáo dục hoặc phát triển sự nghiệp.
  • Bất bình đẳng kinh tế và bất bình đẳng tuổi tác: người lao động lớn tuổi có thể bị phân biệt đối xử trong quá trình tuyển dụng, vì người sử dụng lao động ưu tiên thuê nhân viên trẻ hơn - những người được cho là nhiều năng lượng hơn, dễ thích nghi, và hiểu biết về công nghệ hơn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội việc làm của người lao động lớn tuổi, từ đó tác động đến thu nhập của họ.
  • Bất bình đẳng kinh tế và bất bình đẳng sắc tộc: những người được coi là nhóm sắc tộc thiểu số trong một quốc gia có thể sẽ phải đối mặt với sự phân biệt đối xử tại nơi làm việc và cả xã hội, từ khó kiếm việc làm, không được trả lương xứng đáng, đến không thăng tiến được ở nơi làm việc. Điều này có thể hạn chế cơ hội của họ và góp phần làm giảm mức thu nhập.
  • “Sự giao thoa” (intersectionality): một người có thể chịu nhiều bất bình đẳng khác nhau song song (chẳng hạn như một người phụ nữ da màu, xuất thân từ gia đình có thu nhập thấp) có thể phải đối mặt với nhiều sự phân biệt đối xử và bất lợi hơn so với những người chỉ là nạn nhân của một loại bất bình đẳng. Sự giao thoa giữa các loại bất bình đẳng này tiếp tục làm giảm khả năng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội mà nhiều người khác coi là đương nhiên.


5. Một số hiểu nhầm phổ biến về bất bình đẳng

#1. Bất bình đẳng là lẽ đương nhiên

Bất bình đẳng thường được coi là một phần không thể tránh khỏi trong xã hội loài người, hay thậm chí có ý kiến cho rằng đây thực chất là một sự công bằng (đọc thêm về hiện tượng tâm lý “just world” hay tạm dịch là “ông trời có mắt” tại ĐÂY[22]). Thực tế không phải vậy: sự bất bình đẳng thực chất là đều là lựa chọn của con người, được duy trì thông qua các hệ thống xã hội, kinh tế, và chính trị được thiết kế để mang lại lợi ích cho một số nhóm nhưng lại gây lại cho một số nhóm khác. Những lựa chọn này có thể bao gồm phân biệt đối xử, loại trừ, bóc lột, và điều này có thể dẫn đến việc tiếp cận các nguồn lực, cơ hội, quyền lợi một cách không bình đẳng. Ví dụ, quyết định trả lương thấp hơn cho một số nhóm người lao động nhất định, hoặc những người không có đủ tiền sẽ không thể tiếp cận được giáo dục và chăm sóc sức khỏe - những lựa chọn này có thể kéo dài sự bất bình đẳng theo thời gian.

Mặc dù không thể phủ nhận một số mức độ bất bình đẳng là tự nhiên và không thể tránh khỏi (ví dụ như người phụ nữ luôn phải chịu trách nhiệm mang thai và sinh con), nhưng mức độ bất bình đẳng cực đoan mà khiến một bộ phận dân số sống dưới mức tối thiểu, không đảm bảo được quyền con người, hay bị phân biệt đối xử vì những lý do nằm ngoài tầm kiểm soát của cá nhân là điều không bao giờ nên được chấp nhận. Những thiệt thòi mà những nhóm người này phải hứng chịu không phản ánh giá trị hay khả năng vốn có của họ, mà là biểu hiện của những điều kiện bất công mà họ phải đối mặt.

#2. Giải quyết bất bình đẳng là trách nhiệm cá nhân

Đương nhiên, luôn có những câu chuyện, những tấm gương cho thấy người chịu thiệt thòi vẫn có khả năng đạt được thành công, ước mơ của mình. Dù có thể là những minh chứng rất hay về nỗ lực hay sự tài giỏi của một người đã giúp họ cải thiện được cuộc sống như thế nào, chúng ta không thể mong đợi tất cả những người yếu thế phải tự mình vượt khó. Một điều không thể phủ nhận rằng nếu những người chịu thiệt thòi thành công trong cuộc sống, họ đã phải cố gắng rất nhiều, thậm chí gấp rất nhiều lần so với những người đang có mức thành công ngang họ, nhưng may mắn có điểm xuất phát tốt hơn. Sự cố gắng vượt bậc đó là một điều đáng ghi nhận, nhưng không nên được coi là chuyện bình thường, người yếu thế đương nhiên phải cố gắng nhiều hơn những người không yếu thế, và nếu không cố gắng đủ, chuyện họ tiếp tục khổ là điều họ hoàn toàn xứng đáng. Vì sao chúng ta lại chấp nhận rằng có những người không cần phải cố gắng nhiều nhưng vẫn thành công vì họ có điểm xuất phát tốt hơn, nhưng lại đòi hỏi người nghèo phải nỗ lực như một hình thức “chuộc tội” như vậy? Hãy nghĩ thử mà xem, không ai trên thế giới này khi sinh ra được lựa chọn hoàn cảnh sống hay điều kiện kinh tế của cha mẹ - việc bạn sinh ra trong một gia đình có điều kiện, hay một gia đình nghèo khổ, thiếu thốn không quá khác với tỷ lệ ngẫu nhiên của xổ số. Chỉ khác là người không trúng xổ số trên thực tế thì chỉ mất một số tiền nhỏ đã dùng để mua tờ vé số đó, còn người không trúng “xổ số” cuộc đời thì sẽ có những vấn đề, trở ngại đeo đuổi họ suốt cuộc đời, cản trở việc họ có một cuộc sống tốt hơn.


6. Giải pháp

Bất bình đẳng là một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu trong xã hội và đã được nhận định là một vấn đề cấp thiết, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của con người. Vậy nên cũng không quá lạ khi đã có rất nhiều nỗ lực để giải quyết các loại bất bình đẳng khác nhau, và các nỗ lực này thường tập trung để giúp tăng cơ hội và/hoặc cải thiện kết quả đầu ra cho nhóm người yếu thế. Một số loại giải pháp đã được triển khai bao gồm:

Bảo trợ xã hội Bảo trợ xã hội là tập hợp những chính sách, chương trình nhằm đảm bảo an ninh thu nhập và tiếp cận các dịch vụ thiết yếu cho các nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Bảo trợ xã hội có thể giúp giảm nghèo, giảm bất bình đẳng, và giảm loại trừ xã hội bằng cách cung cấp các khoản trợ cấp tiền mặt, lương hưu, bảo hiểm y tế, trợ cấp giáo dục, hỗ trợ chăm sóc trẻ em, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tàn tật v.v. Loại giải pháp này thường được triển khai bởi chính phủ các quốc gia.
Thuế lũy tiến Thuế lũy tiến có nghĩa là chính phủ sẽ áp dụng thuế suất cao hơn đối với những người có thu nhập cao hơn, và thuế suất thấp hơn đối với người có thu nhập thấp hơn. Thuế lũy tiến có thể giúp giảm bất bình đẳng thu nhập bằng cách (a) phân phối lại của cải từ người giàu sang người nghèo và (b) tài trợ cho các dịch vụ công và chương trình xã hội mang lại lợi ích chung cho tất cả mọi người. Tương tự như bảo trợ xã hội, thuế lũy tiến là nỗ lực đến từ phía chính phủ để giảm bất bình đẳng. 
Chính sách nâng đỡ/ưu đãi (affirmative action) Chính sách nâng đỡ/ưu đãi (affirmative action) nhằm tăng cường cơ hội, từ đó cải thiện kết quả đầu ra cho những nhóm thiểu số thường bị phân biệt đối xử trong xã hội, như người da màu, phụ nữ, người bản địa, hoặc người khuyết tật. Các chính sách này có thể bao gồm những biện pháp như ưu tiên tuyển dụng, học bổng, đào tạo, hoặc hỗ trợ kinh doanh. Một số ví dụ về chính sách nâng đỡ/ ưu đãi có thể kể đến như:
  • Nhiều trường đại học ở Mỹ sẽ dành một tỷ lệ nhất định các suất vào trường cho một số nhóm thiểu số hoặc yếu thế.
  • Đảng Lao động của Úc đưa ra định mức cho sự đại diện 50/50 về giới tính trong nghị viện.
  • Nhiều công ty có thể sẽ có định mức về việc phải thuê bao nhiêu người thuộc nhóm thiểu số và nhóm bất lợi.

Chính sách nâng đỡ/ ưu đãi có thể được áp dụng ở bất kỳ tổ chức nào, dù thuộc khối công hay tư nhân.

Các phong trào xã hội Các phong trào xã hội là những hành động tập thể hoặc vận động những người có chung mục tiêu hoặc bất bình đối với một hệ thống hoặc một tình huống hiện tại có trong xã hội. Các phong trào xã hội có thể giúp giảm bất bình đẳng bằng cách nâng cao nhận thức, yêu cầu thay đổi, thách thức sự bất công, tạo ra các lựa chọn thay thế, và tác động đến các chính sách và thể chế. Các phong trào này có thể được khởi xướng và dẫn dắt bởi các tổ chức, cá nhân, đôi khi cũng có thể bởi các cấp chính quyền của các quốc gia.
Những người thiệt thòi, yếu thế trong xã hội được "nâng đỡ" để có cơ hội trong cuộc sống tương đương số đông
Trên đây là bốn trong số rất nhiều giải pháp để giảm thiểu bất bình đẳng. Mỗi cách đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, tuy nhiên có lẽ chính sách nâng đỡ/ưu đãi là một trong những giải pháp gây ra nhiều tranh cãi nhất. Mặc dù loại giải pháp này thành công trong việc thúc đẩy sự đa dạng trong môi trường học tập, làm việc, đồng thời tăng cường cơ hội cho các nhóm yếu thế, nó cũng đối mặt với nhiều lời chỉ trích. Nhiều người cho rằng nó tạo ra sự phân biệt đối xử đảo ngược - nghĩa là giờ đây nhóm được cho là chiếm ưu thế sẽ bị tổn hại và mất cơ hội. Điều này có thể làm gia tăng sự thù địch và xung đột giữa các nhóm với nhau. Không những vậy, nó có nguy cơ hạ thấp hiệu suất và kết quả của các tổ chức, trường học do không chọn ứng viên hay thí sinh giỏi nhất, thay vào đó bị giới hạn lựa chọn theo giới tính, sắc tộc, v.v. Cuối cùng, chính sách nâng đỡ/ ưu đãi còn có khả năng phá hoại lòng tự trọng và sự tự tin của các nhóm yếu thế vì họ có thể cảm thấy rằng họ chỉ đạt được những điều này không phải nhờ năng lực của bản thân, mà chỉ đơn thuần là do họ là phụ nữ/ người dân tộc/ da màu, v.v.


Bất chấp những nhược điểm, các chính sách nâng đỡ/ ưu đãi này vẫn được coi là cần thiết để giảm bất bình đẳng trong xã hội. Chắc chắn đây không phải là giải pháp hoàn hảo, nhưng nó là giải pháp cần thiết. Những chính sách này thừa nhận rằng bình đẳng không có nghĩa là mọi người phải được đối xử giống như nhau, mà cần đối xử với các đối tượng khác nhau dựa trên nhu cầu và hoàn cảnh của họ. Không những vậy, những chính sách này công nhận rằng có những rào cản và thành kiến mang tính hệ thống đang ngăn cản các nhóm yếu thế tiếp cận với những cơ hội cơ bản. Do đó, chính sách nâng đỡ không nên bị bãi bỏ hoặc cấm, mà cần được cải thiện, tinh chỉnh. Đây nên được coi là một loại chính sách tạm thời và cần được điều chỉnh theo ngữ cảnh.  


Có thể thấy những giải pháp dành cho vấn đề bất bình đẳng đều có quy mô lớn, đòi hỏi phải có sự can thiệp của chính phủ và các tổ chức, ban ngành có tiếng nói. Liệu như vậy có nghĩa rằng một cá nhân nhỏ bé sẽ không thể đóng góp vào công cuộc giảm thiểu bất bình đẳng hay không? Câu trả lời chắc chắn là không. Chính phủ được xây dựng bởi người dân, và phục vụ cho người dân, do đó cá nhân hoàn toàn có khả năng tham gia, ảnh hưởng những quyết định của chính phủ khi đó là một vấn đề chung của đất nước; tổ chức cũng là tập hợp của những cá nhân, được định hướng, vận hành, và duy trì bởi các cá nhân. Vậy nên nói rằng cá nhân không thể tham gia vào các hoạt động của tổ chức, hay thậm chí là chính phủ, là đánh giá thấp vai trò của cá nhân trong xã hội nói chung, hay nặng nề hơn một chút, là biện minh cho hành động trốn tránh trách nhiệm công dân. Con người chỉ “thấp cổ bé họng” khi không biết quyền của mình và không đấu tranh cho quyền của mình. Quan trọng hơn cả, cá nhân nên trang bị cho mình những hiểu biết, nhận thức đúng đắn về bất bình đẳng và sẵn sàng chia sẻ cho những người xung quanh.


Nguồn tham khảo

K9: Sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững

Sản xuất và tiêu thụ thiếu bền vững: vấn đề lớn của xã hội hiện đại
Gần đây, đài truyền hình Việt Nam có làm một phóng sự ngắn về thói quen mua sắm quá độ của một bộ phận giới trẻ. Họ mua sắm dù không có nhu cầu, chỉ cần giá rẻ cũng có thể trở thành lý do để họ chi tiền cho một món hàng. Điện thoại thì chỉ có một, nhưng ốp thì phải có đến trăm chiếc. Hay mua một bộ quần áo đi đám cưới, và chỉ mặc một lần chụp ảnh đã trở thành “cũ”, và sẽ không bao giờ được mặc đến nữa. Mua sắm được cho rằng có thể kích thích sự gia tăng dopamine - một chất dẫn truyền thần kinh giúp cải thiện tâm trạng tạm thời khiến chúng ta quên đi những cảm xúc tiêu cực, do đó nhiều người trẻ dùng mua sắm làm liều thuốc chữa lành cho những vấn đề trong cuộc sống.

Xem toàn bộ phóng sự tại ĐÂY[1]

Phóng sự này đã nêu được đúng thực trạng về văn hóa tiêu dùng quá mức của người dân, khi giờ đây chúng ta chi tiền không nhất thiết là vì “cần”, mà là vì “muốn.” Phóng sự phân tích rất kỹ về trách nhiệm của người tiêu dùng khi không kiểm soát được chi tiêu của mình, đồng thời đề cập đến những hậu quả cho người tiêu dùng như hết tiền, vay nợ. Tuy nhiên, phóng sự này lại không đi sâu vào vai trò của những nền tảng bán hàng trong sự tiêu thụ quá mức, hay vì sao những nhà sản xuất lại đang tạo ra nhiều sản phẩm thừa thãi, vô dụng đến như vậy. Các sự kiện ngày đôi, siêu giảm giá, flash sale, v.v. liên tục được đưa ra với mục đích tạo cảm giác cấp bách, khan hiếm bằng cách làm nổi bật các ưu đãi trong thời gian giới hạn. Các nền tảng mạng xã hội cũng không ngừng đưa ra những quảng cáo, đánh giá của người nổi tiếng, tất cả đều kích thích người tiêu dùng mua sản phẩm. Với một thế lực liên tục thúc giục con người mua sắm như vậy, khó lòng có thể nói về vấn đề tiêu thụ quá mức. Thực chất, tiêu thụ quá mức luôn đi kèm với sản xuất dư thừa, vì một thứ không thể tồn tại nếu thiếu thứ kia. Doanh nghiệp đang sản xuất vượt quá nhu cầu thực sự, thiết yếu của người tiêu dùng, đồng thời “ép” người tiêu dùng tiếp tục tiêu thụ. Đây là thực chất là một hiện tượng ở quy mô thế giới chỉ không chỉ là một trường hợp đơn lẻ tại Việt Nam.

Xã hội của chúng ta giờ đây đang có một vấn đề lớn với sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức. Tác động tiêu cực của nó không gói gọn ở bộ phận người trẻ, càng không chỉ ảnh hưởng đến túi tiền của người tiêu dùng, mà nó còn có những tác động vô cùng tiêu cực lên cuộc sống của con người và môi trường xung quanh nói chung.

 

1. Chúng ta đang sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức như thế nào?

Sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức là hai khái niệm có liên quan mật thiết với nhau, mô tả tình trạng cung - cầu của hàng hóa và dịch vụ vượt quá mức tối ưu cho môi trường và xã hội. Dưới đây là một số biểu hiện tiêu biểu về sản xuất dư thừa và tiêu dùng quá mức:

Thực phẩm

Quá trình sản xuất - tiêu thụ thực phẩm đang vô cùng thiếu cân bằng. Nông dân trên toàn thế giới đang sản xuất đủ lương thực để nuôi sống 1,5 lần dân số toàn cầu[2], vậy nhưng khoảng một phần ba trong số đó sẽ biến thành rác thải mà không bao giờ được sử dụng: 14% lương thực được sản xuất ra bị thất thoát giữa thu hoạch và bán lẻ, trong khi ước tính 17% tổng sản lượng lương thực toàn cầu bị lãng phí trong các hộ gia đình (11%), dịch vụ phục vụ ăn uống (5%), hay trong bán lẻ (2%). Lượng thực phẩm thất thoát hoặc lãng phí này tương đương với khoảng 1,3 tỷ tấn thực phẩm, có thể đủ để nuôi sống 2 tỷ người - gấp đôi số người thiếu dinh dưỡng trên toàn thế giới.[3]

Vấn đề về phân phối thức ăn cũng ảnh hưởng ở chiều ngược lại. Có rất nhiều người có tiếp cận với lượng thực phẩm quá lớn, từ đó không kiểm soát tốt lượng thức ăn nạp vào. Khoảng 2,6 tỷ người (38% dân số Trái Đất) đang trong tình trạng thừa cân hoặc béo phì.[4]


May mặc

Chúng ta sản xuất nhiều quần áo hơn mức chúng ta có thể mặc, và chúng ta mua nhiều quần áo hơn mức cần thiết. Khoảng 100 tỷ sản phẩm may mặc được sản xuất mỗi năm, tương đương với 14 món đồ mới cho mỗi người trên khắp thế giới. Số lượng quần áo mà người tiêu dùng mua đã tăng khoảng 60% từ năm 2000 đến năm 2014, và thời lượng sử dụng giảm xuống còn một nửa.[5] Vào năm 2018, khoảng 60% quần áo bị loại bỏ trong vòng một năm sau khi mua.[6] “Thời trang nhanh” - những món quần áo bắt kịp xu hướng nhanh chóng và giá thành rẻ đã dần trở nên thịnh hành với người tiêu dùng. Ở nước ngoài thì H&M, Zara, Forever 21 là những cái tên nổi tiếng với thời trang nhanh, còn đối với Việt Nam thì thường không có hãng cụ thể mà là các trang thương mại điện tử như SHEIN, Taobao, Shopee. Vì những sản phẩm may mặc này đi theo xu hướng “sớm nở tối tàn”, chất lượng cũng không cao nhằm giữ giá thành rẻ, chúng thường trở nên lỗi mốt hoặc hư hỏng nhanh chóng, từ đó bị người dùng vứt bỏ.

Tìm hiểu thêm về những mối nguy hại đến từ thời trang nhanh tại ĐÂY[7])

Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng không chỉ có thời trang nhanh là “thủ phạm” duy nhất của vấn đề sản xuất và tiêu thụ quá mức trong ngành may mặc: kể cả các thương hiệu cao cấp cũng đang tăng cường sản xuất để cạnh tranh với thời trang nhanh bằng cách tăng số lượng bộ sưu tập cho ra mắt mỗi năm từ hai lên thành tám (có khi hơn).[8]


Đồ điện tử

Ngành công nghiệp điện tử không ngừng tạo ra các sản phẩm mới và cải tiến, chẳng hạn như điện thoại thông minh, laptop, máy tính bảng, TV, máy chơi game, v.v. Những sản phẩm này thường có vòng đời ngắn hơn và nhanh lỗi thời hơn so với các hàng hóa khác vì chúng nhanh chóng bị thay thế bởi các mẫu mới hơn với các tính năng, hiệu suất tốt hơn. Các công ty công nghệ như Apple, Samsung, Google nổi tiếng với việc cho ra mắt sản phẩm mới một cách thường xuyên, khiến người tiêu dùng cảm thấy họ cần nâng cấp thiết bị liên tục, từ đó tạo ra rất nhiều rác thải điện tử. Khoảng 53,6 triệu tấn chất thải điện tử đã được tạo ra vào năm 2019.[9] Trong khi đó, để tạo ra sản phẩm mới, ngành công nghiệp này vẫn đang ngày ngày khai thác kim loại hiếm, sử dụng năng lượng và nước sạch, tạo ra khí thải nhà kính và các chất độc hại, đồng thời bóc lột người lao động ở các nước đang phát triển.


Du lịch

Du lịch cũng góp phần vào vấn đề sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức theo nhiều cách. Du lịch có thể gây áp lực quá tải đối với các nguồn tài nguyên quan trọng của địa phương, chẳng hạn như nước, năng lượng, và động vật hoang dã. Ví dụ, ngành du lịch có xu hướng sử dụng nhiều nước hơn mức được phân bổ hợp lý để sử dụng cho bể bơi, cảnh quan, và mục đích sử dụng cá nhân cho khách du lịch. Đây có thể là vấn đề đối với những điểm đến dễ bị thiếu nước. Du lịch cũng sử dụng một lượng năng lượng đáng kể để sưởi ấm, chiếu sáng, và vận chuyển khách du lịch bằng đường bộ, đường biển, hoặc đường hàng không - điều này có thể làm quá tải cơ sở hạ tầng năng lượng của địa phương và tạo ra lượng khí thải carbon lớn cho vùng đó. Hơn nữa, khách du lịch có thể vô tình thúc đẩy việc khai thác tài nguyên động thực vật thiếu trách nhiệm. Nhu cầu sử dụng hải sản hoặc sản vật của một địa phương có thể dẫn đến đánh bắt quá mức một số loài, và việc mua quà lưu niệm có thể khuyến khích việc bán các sản phẩm từ động vật hoang dã đang bị đe dọa.[10][11]


Nội dung số

Chúng ta đang sống trong một xã hội nơi nội dung trực tuyến được sản xuất nhiều hơn mức con người có thể tiêu thụ, và chúng ta đang tiêu thụ nhiều hơn mức cần thiết. Tính riêng Youtube, trong năm 2022, cứ mỗi phút thì có khoảng 500 giờ video được tải lên, tương đương với tổng thời lượng một năm là khoảng 30,000 năm cho riêng video trên nền tảng này.[12] Các loại thuật toán nhận diện sở thích, mối quan tâm của người dùng cũng thường xuyên được sử dụng để đề xuất các nội dung tiếp theo, khuyến khích người dùng tiếp tục tiêu thụ những nội dung này và thậm chí gây nghiện.

Không những chỉ là các nội dung giải trí, tin tức và sự kiện xảy ra ở khắp nơi trên thế giới cũng được cập nhật đến người dùng hàng giờ, hàng phút thông qua nền tảng mạng xã hội và các ứng dụng tổng hợp tin tức. Một khảo sát ở Mỹ cho thấy cứ 10 người trưởng thành ở Mỹ thì có một người cập nhật tin tức mỗi giờ một lần, và 20% người dân Mỹ cho biết họ liên tục theo dõi trang chủ của các tài khoản mạng xã hội của họ - điều này thường khiến họ dễ dàng bắt gặp những tiêu đề tin tức mới nhất, dù họ có thích hay không.[13] Nỗi sợ bỏ lỡ một thông tin sốt dẻo, một xu hướng mà ai cũng biết, kèm theo việc truyền thông tạo ra quá nhiều nội dung đang ngày càng làm cho vấn đề về sản xuất và tiêu thụ quá mức nội dung số trầm trọng hơn.

Ví dụ: Tiktok Tiktok là ví dụ điển hình về sự sản xuất và tiêu thụ quá mức các nội dung trực tuyến: đối với người tạo nội dung, nền tảng khuyến khích người dùng tạo nội dung nhanh và thường xuyên bằng cách cho phép người dùng dễ dàng tạo và tải lên các video ngắn với nhiều tính năng khác nhau, như filter, hiệu ứng, nhạc, sticker, chuyển tiếp. Tiktok cũng thưởng cho những người đăng bài thường xuyên bằng cách tăng tương tác và tăng tiếp cận. Điều này có thể tạo ra áp lực phải sản xuất nhiều nội dung hơn và liên tục tạo nội dung mới để theo kịp các xu hướng. Đối với người xem nội dung, người dùng Tiktok có thể xem và khám phá hàng triệu video được cá nhân hóa về nhiều chủ đề khác nhau như hài kịch, âm nhạc, vũ đạo, giáo dục, làm đẹp, thời trang, thể thao, rất dễ dẫn đến tình trạng “nghiện” đối với nền tảng.

Những số liệu và thông tin trên đây mô tả những xu hướng chung của cả thế giới về vấn đề sản xuất và tiêu thụ quá mức chứ không phải của riêng một quốc gia nào. Tuy nhiên, không có nhiều nước bàn luận hay nghiên cứu sâu về vấn đề này, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể nhìn vào những xu hướng chung của thế giới để nhận diện liệu Việt Nam có đang gặp tình trạng sản xuất và dư thừa quá mức hay không.


2. Vì sao sản xuất và tiêu thụ quá mức lại xảy ra?
Vòng lặp giữa sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức
Sản xuất dư thừa có thể xảy ra như một điều không mong muốn, ví dụ như ước tính sai nhu cầu thị trường, hay quy trình vận hành chưa thực sự hiệu quả. Tuy nhiên, cũng có những công ty cố tình sản xuất nhiều hơn nhu cầu thực để tăng lợi nhuận và tăng trưởng: sản xuất thật nhiều đồng nghĩa với việc họ có cơ hội để bán được nhiều sản phẩm hơn, chiếm được thị phần lớn hơn và có lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác, từ đó gia tăng được lợi nhuận đồng thời mở rộng kinh doanh. Các công ty cũng có thể sản xuất thật nhiều để giảm chi phí sản xuất trung bình của một sản phẩm, nhờ đó mà giảm giá thành sản phẩm, thu hút nhiều người mua hơn và cải thiện lợi nhuận. Sản xuất dư thừa đóng vai trò là một trong những nguyên nhân dẫn đến tiêu dùng quá mức. Khi các công ty sản xuất nhiều hàng hóa hoặc dịch vụ hơn mức thị trường có thể hấp thụ, họ sẽ tìm cách để kích thích nhu cầu và bán hàng tồn kho dư thừa của mình. Một số cách quen thuộc bao gồm quảng cáo, tiếp thị, giảm giá, hoặc thậm chí giảm chất lượng sản phẩm để giảm tuổi thọ, ép người tiêu dùng phải mua đồ mới. Điều này góp phần tạo nên chủ nghĩa tiêu thụ, trong đó mọi người mua nhiều hơn những gì họ cần, thường là để đạt được thỏa mãn tạm thời hoặc hướng tới hay duy trì một địa vị xã hội nhất định.

Chủ nghĩa tiêu dùng (consumerism) cho rằng càng tiêu thụ nhiều hàng hóa và dịch vụ thì càng có lợi cho nền kinh tế, và nhiều chính phủ thường thúc giục người dân làm tròn bổn phận công dân bằng cách gia tăng chi tiêu để giúp phát triển nền kinh tế nước nhà. Ngày nay, chủ nghĩa tiêu dùngkhông chỉ xuất hiện ở các nước tư bản mà xảy ra ở hầu hết các quốc gia, bao gồm cả nhưng nước phát triển và đang phát triển. Chủ nghĩa tiêu dùng nhấn mạnh vào việc người dân chi tiêu cho các mặt hàng, dịch vụ để thỏa mãn các nhu cầu về thẩm mỹ, sở thích, hay xu hướng, v.v. chứ không chỉ đơn thuần là để đáp ứng những nhu cầu cơ bản để tồn tại của con người.  Chính vì thế, chủ nghĩa này cũng đánh đồng việc tiêu thụ với hạnh phúc, rằng càng mua hàng nhiều, thì con người càng trở nên hài lòng với cuộc sống. Nhưng thực tế thì mong muốn không ngừng nghỉ về sở hữu vật chất này nuôi dưỡng cảm giác không hài lòng và duy trì quan niệm hạnh phúc phụ thuộc vào của cải vật chất.

Tiêu thụ quá mức tạo ra sản xuất dư thừa. Khi mọi người tiêu dùng nhiều hơn mức cần thiết, họ sẽ tạo ra nhiều nhu cầu hơn đối với hàng hóa và dịch vụ. Điều này có thể khuyến khích các công ty sản xuất nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu này và tăng lợi nhuận của họ. Với sức mua lớn, các nhà sản xuất sẽ cạnh tranh thu hút khách hàng bằng cách giảm giá và/hoặc cải thiện chất lượng, từ đó tiếp tục kích thích tiêu thụ. Có thể thấy sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức tạo ra một vòng luẩn quẩn khó thoát cho cả khối sản xuất và người tiêu dùng.

Một lý do khác thường được sử dụng làm “lá chắn” bào chữa cho việc sản xuất và tiêu thụ nhiều là cần thiết cho con người là “tăng trưởng kinh tế”. Rất nhiều người tin rằng cứ sản xuất và tiêu dùng càng nhiều thì càng đang đóng góp vào nền kinh tế, và khi nền kinh tế đi lên, cuộc sống của tất cả mọi người trong nền kinh tế đó cũng sẽ đi lên. Tuy nhiên, lập luận này bỏ qua các tác động tiêu cực của sản xuất và tiêu dùng quá mức đối với môi trường cũng như xã hội.


3. Hệ quả của việc sản xuất và tiêu dùng quá mức

Một số hệ quả của sản xuất và tiêu dùng quá mức bao gồm:

Gia tăng bất bình đẳng Tăng trưởng kinh tế không có nghĩa là lợi ích từ sự tăng trưởng đó được phân phối đồng đều giữa các nhóm người khác nhau. Cụ thể, những người giàu nhất (chủ sản xuất, người đứng đầu doanh nghiệp, v.v.) thường được hưởng lợi nhiều nhất từ sự tăng trưởng này, trong khi tác động tích cực đến các nhóm yếu thế thường tương đối nhỏ, từ đó nới rộng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng kinh tế. Điều này có thể thấy được thông qua sự chênh lệch giữa giới siêu giàu với những người còn lại trong xã hội: Trong 10 năm kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008, số lượng tỷ phú đã tăng gần gấp đôi và tài sản của giới siêu giàu trên thế giới đã đạt mức kỷ lục - 26 người giàu nhất thế giới nằm giữ khối tài sản bằng tổng tài sản của một nửa dân số toàn cầu.[14]

Không chỉ dừng lại ở kinh tế, sản xuất và tiêu thụ quá mức còn làm bất bình đẳng tệ hơn trên nhiều phương diện khác, nhưng đều bất lợi cho những nhóm người vốn dĩ đã yếu thế. Ví dụ, người dân ở những nước giàu có có thể tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên gấp 10 lần người dân ở những nước nghèo nhất, và thải ra lượng rác cũng nhiều hơn rất nhiều.[15] Tuy nhiên, việc xử lý chất thải từ việc tiêu thụ quá mức thường bị đổ lên đầu các nước đang phát triển, và điều này gây ra ô nhiễm môi trường ở những nước ấy, và người dân ở đây sẽ chịu ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của họ.

Ngoài ra, sản xuất hàng hóa và dịch vụ thường diễn ra ở các nước đang phát triển. Ở đây, tình trạng bóc lột người lao động như trả lương thấp, điều kiện làm việc độc hại, thời gian làm việc dài quá mức cho phép, hay tận dụng lao động trẻ em, v.v. xảy ra rất nhiều, khiến cho những người dân ở các nước phát triển càng chịu nhiều thiệt thòi hơn và khó có cơ hội cải thiện cuộc sống.

Đe dọa sức khỏe của con người Việc tiêu dùng vượt ngưỡng cần thiết cũng đem lại những hậu quả nhãn tiền cho sức khỏe con người cả về mặt thể chất và tinh thần. Về thể chất, dễ thấy nhất là ăn uống quá độ - điều này dẫn đến tình trạng thừa cân, béo phì, tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, đột quỵ, một số loại bệnh ung thư và bệnh tiểu đường loại II. Về mặt tinh thần, quá tải thông tin từ các mạng xã hội có thể dẫn đến những hệ quả tiêu cực cho người dùng như nhầm lẫn, mất tập trung, giảm năng suất, cáu kỉnh, khó ngủ, trầm cảm, lo lắng và tăng huyết áp.
Gây suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu Sản xuất dư thừa và tiêu dùng quá mức thường dẫn đến cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm, và suy thoái môi trường. Một ví dụ điển hình là điện - con người dùng than đá và khí ga tự nhiên để tạo ra điện mà chúng ta sử dụng trong nhà, văn phòng, cửa hàng, v.v. Những tài nguyên này đều có hạn và không thể tái tạo được, có nghĩa là đến một ngày chúng sẽ cạn kiệt. Không những vậy, sản xuất và tiêu thụ quá mức dẫn đến việc tạo ra quá nhiều chất thải và nó cũng gây ra ô nhiễm môi trường. Điều này sẽ đe dọa đa dạng sinh học bằng cách phá hủy môi trường sống của động, thực vật, tạo điều kiện cho các loài ngoại lai xâm lấn, lây lan bệnh tật và khiến nhiều loài tuyệt chủng.

Không những vậy, sản xuất hàng hóa và dịch vụ thường yêu cầu sử dụng nhiên liệu hóa thạch, thải ra khí nhà kính vào khí quyển, gây ra biến đổi khí hậu và các tác động kéo theo như mực nước biển dâng cao, các hiện tượng thời tiết cực đoan hay mất đa dạng sinh học. Ngoài ra, việc xử lý chất thải đến từ việc tiêu thụ quá mức cũng giải phóng khí nhà kính vào khí quyển. Một ví dụ cho điều này là thức ăn dư thừa bị vứt bỏ: khi thực phẩm bị đưa đến bãi rác và để cho thối rữa, loại chất thải này tạo ra methane - khí nhà kính có sức ảnh hưởng còn lớn hơn CO2 đến 25 lần. Thức ăn dư thừa đóng góp tới 8-10% tổng lượng phát thải khí nhà kính trên toàn thế giới.

Với môi trường suy thoái và các tác động của biến đổi khí hậu gây ra từ sản xuất quá mức, con người liên tục phải đối mặt với ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường, thiếu an ninh lương thực, và các thảm họa thiên nhiên, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe thậm chí khả năng sống còn của con người.

Nếu lấy tăng trưởng kinh tế ra là đích đến, và con đường để đạt được điều này là thông qua sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức, thì con người đang phải đánh đổi quá lớn: môi trường thiên nhiên xung quanh suy thoái, biến đổi khí hậu diễn ra tệ hơn kéo theo hàng loạt những nguy cơ thiên tai, sức khỏe con người bị ảnh hưởng tiêu cực, và xã hội thiếu tính ổn định do tác động của bất bình đẳng. Câu hỏi đặt ra ở đây là: liệu chúng ta có nên vì phát triển kinh tế mà lờ đi những hậu quả đã và đang diễn ra đối với con người và môi trường hay không?

Xem thêm về sự ám ảnh đối với tăng trưởng kinh tế của con người tại ĐÂY[16]


4. Ai là người chịu trách nhiệm cho sản xuất dư thừa và tiêu dùng quá mức?

Sản xuất và tiêu dùng quá mức cần thiết là một vấn đề phức tạp, không thể quy kết trách nhiệm hoàn toàn cho một nhóm hay cá nhân nào. Thay vào đó, đây là một vấn đề mang tính hệ thống liên quan đến nhiều bên khác nhau, bao gồm người tiêu dùng, doanh nghiệp, và chính phủ. Mỗi nhóm đều góp phần tạo ra và duy trì vấn đề, vậy nên cũng không khó hiểu khi yêu cầu cả ba nhóm này tham gia giải quyết vấn đề.

Người tiêu dùng: chủ nghĩa tiêu dùng và mong muốn sở hữu vật chất của con người đã dẫn đến một vòng lặp sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức. Người tiêu dùng mua nhiều hơn mức họ cần, dẫn đến xả/phát thải tăng cao, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Dù vậy, cũng cần phải hiểu rằng hành vi của người tiêu dùng bị thúc đẩy bởi quảng cáo và các chiêu trò tiếp thị, khiến mọi người tin rằng họ càng sở hữu nhiều thì họ càng hạnh phúc. Ngoài ra, có một bộ phận người tiêu dùng không thực sự có đủ năng lực tài chính để đưa ra những lựa chọn tiêu dùng tốt hơn cho môi trường, như là mua các thiết bị, phương tiện tiết kiệm năng lượng hoặc sử dụng năng lượng tái tạo, hay mua một đồ dùng chất lượng cao, có thể sử dụng lâu dài nhưng đắt đỏ (thay vì dùng hàng rẻ, kém chất lượng và liên tục phải thay mới). Do đó, khi nói về vai trò của người tiêu dùng, chúng ta nên hiểu rằng quyết định tiêu dùng của con người đang bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau. Đồng ý rằng bản thân người tiêu dùng có thể học cách để kiểm soát bản thân tốt hơn, nhưng cũng nên cẩn trọng với những chiến dịch, những giải pháp chỉ tập trung đổ trách nhiệm cho người tiêu dùng mà hoàn toàn không nhắc đến vai trò của bên sản xuất cũng như của chính phủ.

Doanh nghiệp: một trong những động lực chính của sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức là việc theo đuổi lợi nhuận. Các công ty không ngừng tìm cách tăng lợi nhuận, dẫn đến việc sản xuất nhiều hàng hóa hơn mức cần thiết mà bất chấp những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cũng như đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống của con người. Một số doanh nghiệp thì xảo quyệt hơn - họ  “tẩy xanh” (greenwashing) sản phẩm của mình, khiến cho người tiêu dùng có ấn tượng rằng các sản phẩm ấy là thân thiện với môi trường, đánh vào nhu cầu muốn đóng góp vào công cuộc bảo vệ trái đất nói chung, trong khi đó thực chất dành hầu hết nguồn lực cho việc quảng cáo xanh hơn là thực hiện các hoạt động thực tế giúp giảm thiểu tác động tới môi trường.

Một mặt doanh nghiệp thường xuyên đổ lỗi cho người tiêu dùng về thói quen mua sắm của họ, mặt khác doanh nghiệp luôn kích cầu, thúc đẩy mọi người tiếp tục mua sắm thông qua quảng cáo, tiếp thị, truyền thông. Các kênh này liên tục nói với người tiêu dùng rằng họ đang không đủ tốt (tóc không đủ suôn, da mặt không đủ sáng, cơ thể không đủ gầy, lối sống không đủ năng động, v.v.) và đưa ra sản phẩm cần bán như một giải pháp, từ đó tạo ra nhu cầu mà không thực sự xuất phát từ bản thân của người tiêu dùng. Đây là một trong những yếu tố lớn nhất duy trì vòng lặp sản xuất dư thừa - tiêu thụ quá mức.

Chính phủ các nước cũng đóng một vai trò trong sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức. Các chính sách thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế có thể sẽ ưu tiên sản xuất hơn tính bền vững. Một số chính phủ có thể không quản lý chặt chẽ hoặc đánh thuế nặng tay các tác động tiêu cực có thể đến từ sản xuất và tiêu dùng, chẳng hạn như ô nhiễm, phát thải khí nhà kính, hoặc xả thải. Một số khác lại khuyến khích chủ nghĩa tiêu dùng, hướng tới kích cầu, gia tăng sản xuất, trao đổi mua bán. Đương nhiên, không thể phủ nhận rằng nhiều bộ máy đứng đầu các quốc gia đã và đang có những nỗ lực để cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, tuy nhiên họ đã làm được như kỳ vọng hay tiềm năng cho phép của họ hay chưa thì lại là một câu chuyện khác.

—----

Sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức là một vấn đề đa khía cạnh với nhiều tác nhân khác nhau đang duy trì vòng lặp sản xuất và tiêu thụ quá mức. Vì không phải được gây ra bởi một cá nhân hay tổ chức nhất định, để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần sự chung tay của cả xã hội, đặc biệt là ba nhóm người tiêu dùng - nhà sản xuất/doanh nghiệp - chính phủ.


5. Giải pháp: Sản xuất và tiêu thụ bền vững hơn

Đã đến lúc chúng ta cần phải cân nhắc lại sự ám ảnh của con người đối với sự tăng trưởng kinh tế. Chúng ta cần chuyển sự tập trung từ tăng trưởng kinh tế sang sự bền vững. Chúng ta cần một cách tiếp cận mới mà đề cao sự khỏe mạnh của Trái Đất, của con người hiện tại, và cả của các thế hệ tương lai. Tài nguyên cần phải được bảo tồn và sử dụng một cách thông minh, đồng thời chất, khí thải phải được giảm thiểu đến mức tối đa.

Điều này có nghĩa là chúng ta cần hướng tới sản xuất và tiêu thụ bền vững - nghĩa là hàng hóa và dịch vụ cần được tạo ra và sử dụng một cách hiệu quả, tránh lãng phí, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực lên con người và môi trường.[17] Kết quả lý tưởng của mô hình này là chúng ta vừa có khả năng đáp ứng nhu cầu của hiện tại, nhưng đồng thời cũng không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.

Hiện nay, có ba loại giải pháp chính cho vấn đề sản xuất và tiêu thụ quá mức mà đã và đang được thực hiện, bao gồm giải pháp về chính sách, giải pháp từ phía “cung”, và giải pháp từ phía “cầu”:

  • Giải pháp về chính sách: đây là những giải pháp liên quan đến việc tạo ra và thực thi luật pháp, quy định và thỏa thuận mà có thể hỗ trợ và khuyến khích các giải pháp cung và cầu. Chúng có thể liên quan đến việc thiết lập mục tiêu, giới hạn, và hình phạt đối với các tác động môi trường và xã hội, cũng như cung cấp các khoản trợ cấp, phụ trợ hay vay vốn cho các hoạt động thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ bền vững. Một số việc làm điển hình có thể là các lệnh cấm nhựa sử dụng một lần (Úc, Canada, Anh) hay định giá carbon (các công ty phải trả khoản tiền tương ứng với lượng carbon mà họ thải ra môi trường trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh).[18]
  • Giải pháp từ phía “cung”: là những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tính bền vững của quá trình sản xuất và chuỗi cung ứng. Chúng có thể liên quan đến việc áp dụng các công nghệ, phương pháp và tiêu chuẩn mới có thể giảm chất thải, khí thải và sử dụng tài nguyên. Ví dụ, sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo; phát triển sản phẩm có độ bền cao,  không đòi hỏi phải sản xuất liên tục các sản phẩm thay thế; hay cung cấp các dịch vụ sửa chữa, bảo hành để tăng thời gian sử dụng của sản phẩm. Không những vậy, tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm thay vì triển khai các chiến dịch truyền thông, quảng cáo với mục đích tạo nhu cầu giả cũng là một cách mà phía “cung” có thể giúp cải thiện tình trạng sản xuất và tiêu dùng quá mức.
  • Giải pháp từ phía “cầu”: những giải pháp này nhằm giảm nhu cầu đối với các sản phẩm hoặc dịch vụ gây ra tình trạng sản xuất dư thừa và tiêu thụ quá mức. Chúng có thể liên quan đến việc thay đổi sở thích, hành vi, và giá trị mà người tiêu dùng coi trọng thông qua tuyên truyền, giáo dục, và khuyến khích. Một số ví dụ bao gồm các chiến dịch cổ vũ lối sống tối giản, khuyến khích tái sử dụng và sửa chữa, đánh thuế cao các sản phẩm độc hại, hoặc thậm chí tẩy chay những sản phẩm hay thương hiệu gây hại cho Trái Đất.


6. Vậy mỗi cá nhân có thể làm gì?

Với tư cách là người tiêu dùng (hay một phần của phía “cầu”), chúng ta có thể đóng góp vào việc giải quyết vấn đề sản xuất và tiêu thụ quá mức thông qua nhiều cách khác nhau:

  • Giảm chi tiêu; chỉ mua đồ khi thực sự cần thiết;
  • Ưu tiên sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường;
  • Lựa chọn chất lượng thay vì số lượng, đầu tư vào những vật dụng bền và sử dụng linh hoạt hơn (ví dụ một bộ quần áo mà có thể mặc trong nhiều dịp khác nhau);
  • Tái sử dụng: sử dụng lại các sản phẩm, hay 1 phần của sản phẩm cho chính mục đích cũ, hay cho một mục đích khác; sử dụng một sản phẩm nhiều lần cho đến hết tuổi thọ của sản phẩm.[19] Ví dụ quần áo của đã qua sử dụng có thể được gửi tặng cho một đối tượng khác cần sản phẩm đó, sử dụng túi vải đi chợ nhiều lần thay vì dùng túi ni-lông, dùng đồ điện tử cho tới khi không còn giá trị sử dụng (thay vì đổi liên tục để phù hợp với xu hướng).
  • Tái chế: sử dụng rác thải, vật liệu thải làm nguyên liệu sản xuất các vật chất, sản phẩm mới có ích, từ đó ngăn chặn lãng phí tài nguyên, giảm tiêu thụ nguyên liệu thô
  • Để ý đến lượng nước và năng lượng mà bản thân và gia đình sử dụng; đổi qua các loại năng lượng tái tạo hoặc các thiết bị tiết kiệm năng lượng khi có thể;
  • Nhận ra những phương thức “thao túng tâm lý” của các chiến dịch quảng cáo, sự kiện kích cầu để sáng suốt lựa chọn mua sắm phù hợp với nhu cầu.


Nguồn tham khảo

K10: Tiếp cận giáo dục

Tiếp cận giáo dục: vừa là cơ hội, vừa là đầu ra của con người

Giáo dục thường được ca ngợi là công cụ cân bằng tuyệt vời, mang đến cho cá nhân cơ hội vượt qua các rào cản, phá vỡ vòng lặp đói nghèo và phát huy hết tiềm năng của họ. Tuy nhiên, thực tế là khả năng tiếp cận giáo dục chưa bao giờ là bình đẳng. Giữa các nước trên thế giới và ngay cả trong từng quốc gia, luôn có sự chênh lệch đáng kể về cơ hội giáo dục bắt nguồn từ các yếu tố như điều kiện kinh tế, giới tính, sức khỏe, vị trí địa lý, v.v. Việc tiếp cận giáo dục không bình đẳng này có thể kéo dài sự bất bình đẳng xã hội hiện có và cản trở sự tiến bộ của cá nhân và xã hội nói chung. Sau đây, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá các khía cạnh khác nhau của thực trạng thiếu khả năng tiếp cận giáo dục, hậu quả của nó cũng như các giải pháp tiềm năng để thu hẹp khoảng cách này. Bằng cách làm sáng tỏ vấn đề quan trọng này, con người nói chung có thể phấn đấu để đạt được một hệ thống giáo dục công bằng và toàn diện hơn, trao quyền cho các cá nhân, không phân biệt nguồn gốc, giới tính, điều kiện kinh tế, để họ có thể phát triển và đóng góp vào sự tiến bộ của xã hội.

1. Vì sao giáo dục lại quan trọng?

Trước tiên hết chúng ta cần nói về tầm quan trọng của giáo dục. Hiếm có ai trên đời này công khai phủ nhận giá trị của giáo dục, nhưng khi nghe về những trường hợp trẻ em không được đến trường hay người lớn không biết chữ, chúng ta thường cảm thấy những thương cảm nhất định, nhưng đôi khi không nghĩ quá sâu về việc nếu thiếu đi giáo dục thì chất lượng cuộc sống của một người có thể giảm đi đến chừng nào, thậm chí sự phát triển của một xã hội có thể bị ảnh hưởng tiêu cực ra sao.

Cần nhấn mạnh rằng, giáo dục được coi là tấm vé để cá nhân đạt tới một cuộc sống tốt hơn, đồng thời cũng là trụ cột của bất kỳ xã hội nào. Giáo dục cung cấp kiến thức, kỹ năng, và giá trị cần thiết cho sự phát triển cá nhân và sự nghiệp của mỗi người, từ đó tăng khả năng có được công việc tốt hơn và tăng sự tự chủ trong cuộc sống.[1] Chỉ cần thêm một năm đi học sẽ tăng thu nhập của một người lên tới 10% và cung cấp cho họ đa dạng cơ hội việc làm hơn. Giáo dục đặc biệt quan trọng đối với những người có hoàn cảnh khó khăn vì đây có thể là bàn đạp giúp họ vượt qua những rào cản về nghèo đói, bất bình đẳng, phân biệt đối xử và bạo lực mà họ phải đối mặt để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Giáo dục có thể mang lại cho họ cơ hội bình đẳng để tiếp cận làm việc tốt hơn, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ xã hội, từ đó trao quyền cho họ tham gia vào các quyết định ảnh hưởng đến bản thân và cộng đồng của họ.

Được tiếp cận với giáo dục là một yếu tố quan trọng trong việc cải thiện sức khỏe toàn cầu và giúp mọi người đưa ra quyết định sáng suốt về sức khỏe của họ. Bằng cách giúp nâng cao nhận thức và xóa bỏ định kiến, kỳ thị, giáo dục giúp chống lại các bệnh có thể ngăn ngừa được như HIV và sốt rét. Không những vậy, những người lớn có học thức thường có ít con hơn, khỏe mạnh hơn, và truyền lại được những thói quen lành mạnh cho con cái. Phụ nữ có học thức cũng được trang bị tốt hơn để kiểm soát số lượng con của mình. Ví dụ, ở Mali, những phụ nữ không đi học có trung bình khoảng bảy đứa con, còn phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn cũng có nhiều khả năng tìm kiếm sự hỗ trợ và chăm sóc sức khỏe hơn trong thời kỳ mang thai, dẫn đến sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh được cải thiện. Hơn nữa, một đứa trẻ được sinh ra bởi một bà mẹ biết đọc có khả năng sống sót qua 5 tuổi cao hơn tới 50%.[2]

Giáo dục không chỉ quan trọng đối với sự phát triển của một cá nhân mà còn có vai trò đặc biệt lớn quyết định sự phát triển của xã hội. Ngoài việc đào tạo các cá nhân để đạt được tiềm năng cao nhất của mình, từ đó tạo ra sự đổi mới và tiến bộ trong các lĩnh vực khác nhau, giáo dục còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cộng đồng văn minh và công bằng. Nó giúp tạo ra những công dân có nhận thức về đạo đức, trách nhiệm và tôn trọng đa dạng. Giáo dục giúp chúng ta hiểu và đánh giá cao giá trị của sự đoàn kết, sự công bằng và quyền lợi của mọi thành viên trong xã hội. Hay nói cách khác, giáo dục chính là công cụ để chống lại bất bình đẳng, phân biệt, và kỳ thị, tạo điều kiện cho mọi người được phát triển và thể hiện tài năng của mình, góp phần xây dựng nền tảng cho sự phát triển bền vững của con người trong tương lai.

Với vai trò quan trọng như vậy đối với mỗi cá nhân và cả toàn xã hội, giáo dục đã được công nhận là một trong những quyền cơ bản của con người nói chung và trẻ em nói riêng. Để phát triển một đất nước với công dân có học thức, hầu hết các quốc gia đều có các chương trình phổ cập giáo dục để mọi người trong độ tuổi đều được học tập và đạt đến trình độ học vấn nhất định. Phổ cập giáo dục cũng nên được hiểu là khi mọi người đều có cơ hội bình đẳng trong giáo dục, không phân biệt tầng lớp xã hội, chủng tộc, giới tính, dân tộc, hay tình trạng khuyết tật về thể chất hoặc tinh thần. Đây là chìa khóa đặc biệt quan trọng để giúp những nhóm người chịu thiệt thòi có cơ hội thoát nghèo và hòa nhập vào xã hội một cách toàn diện nhất.[3]


2. Tình trạng thiếu cơ hội tiếp cận giáo dục đang diễn ra trên thế giới như thế nào?

Trên khắp thế giới có khoảng 258 triệu (tương đương 17%) trẻ em và thanh thiếu niên không được đến trường. Tỷ lệ này lớn hơn nhiều ở các nước đang phát triển: 31% ở châu Phi cận Sahara và 21% ở Trung Á, so với 3% ở châu  u và Bắc Mỹ.

Không chỉ là chênh lệch về khả năng tiếp cận, thành tích học tập cũng có sự chênh lệch rõ rệt giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ. Ví dụ, các học sinh 15 tuổi ở Brazil, với tiến bộ học tập hiện tại, sẽ mất 75 năm để bắt kịp với điểm trung bình môn Toán và hơn 260 năm đối với môn Đọc hiểu của học sinh ở các quốc gia giàu có hơn. Trong phạm vi quốc gia, kết quả học tập—đo lường thông qua các bài kiểm tra chuẩn hóa—của trẻ em phải sống trong cảnh nghèo đói thường luôn thấp hơn. Ví dụ, ở Mexico, 80% trẻ em Mễ da đỏ (nhóm người có tỷ lệ lớn ở dưới mức nghèo cùng cực) học hết tiểu học nhưng không đạt được trình độ cơ bản về Đọc hiểu và Toán, điểm số cũng thấp hơn nhiều so với mức trung bình của học sinh tiểu học.[4]


Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc trẻ em không được đến trường, hoặc không được tiếp cận giáo dục. Một cách khái quát nhất, các nguyên nhân này có thể chia làm hai nhóm: giáo dục và phi giáo dục. Nhóm nguyên nhân “giáo dục” xoay quanh việc thiếu đi những yếu tố liên quan trực tiếp đến việc học tập của trẻ em, như trường lớp, giáo viên, chương trình học, sách vở, đồ dùng học tập, thiết bị, v.v. Trong khi đó, nhóm nguyên nhân “phi giáo dục” tập trung vào những vấn đề đang xảy ra trong cuộc sống của trẻ em mà làm giảm khả năng tiếp cận giáo dục, ví dụ như nghèo đói, xung đột, vị trí địa lý, dịch bệnh, truyền thống/hủ tục, lối suy nghĩ, v.v. Sau đây, chúng ta sẽ cùng nhau phân tích một số yếu tố góp phần vào tình trạng giới hạn tiếp cận với giáo dục của trẻ em quanh thế giới:

Nhóm nguyên nhân “giáo dục”
  • Thiếu trường học/ trường học đạt tiêu chuẩn: ở các vùng xa xôi, khó khăn, thiếu trường lớp đạt tiêu chuẩn là chuyện xảy ra thường xuyên. Ở nhiều địa phương của Lạng Sơn, hầu hết các lớp mầm non phải học nhờ các nhà văn hóa của thôn, xã và các trường tiểu học. Không chỉ là thiếu phòng học, điều kiện làm việc của cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên nhà trường cũng không đảm bảo - thiếu phòng họp, phòng sinh hoạt chuyên môn, các phòng chức năng và phòng học bộ môn, v.v. Việc thiếu trường học khiến trẻ em thiếu một môi trường học tập an toàn, hiệu quả, từ đó làm giảm khả năng tiếp cận cũng như chất lượng giáo dục nói chung.
  • Thiếu giáo viên/ giáo viên chất lượng: theo UNESCO, chúng ta đang thiếu khoảng 69 triệu giáo viên để đạt được mục tiêu giáo dục cơ bản vào năm 2030. Mức thiếu hụt lớn nhất là ở vùng cận Sahara châu Phi, nơi 90% trường trung học đối mặt với tình trạng thiếu giáo viên nghiêm trọng. Thiếu đào tạo, điều kiện làm việc không hấp dẫn, thiếu kinh phí, tất cả đều làm suy yếu nghề dạy học và làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng thiếu tiếp cận giáo dục toàn cầu.
  • Thiếu sách giáo khoa, giáo cụ dạy học: Nhiều nước đang phát triển phải đối mặt với những thách thức trong việc cung cấp sách vở, đồ dùng đầy đủ và phù hợp phục vụ cho việc học của học sinh. Những thách thức này bao gồm thiếu sách giáo khoa và các tài liệu học tập khác; các vấn đề về ngôn ngữ, đặc biệt là xung quanh việc dạy tiếng mẹ đẻ; và sách, tài liệu không thực sự phù hợp với trình độ hiểu biết của trẻ. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học, đặc biệt là đối với các nhóm thiệt thòi nhất.
Nhóm nguyên nhân “phi giáo dục”
  • Nghèo đói: rất nhiều gia đình không có khả năng chi trả các khoản phí liên quan đến giáo dục, ví dụ như học phí, đồng phục, sách vở, đồ dùng học tập, phương tiện đi lại, v.v. Tình trạng nghèo đói có thể buộc trẻ em phải đi làm hoặc giúp đỡ việc nhà, khiến các em không còn đủ thời gian và sức lực để đi học. Trên toàn thế giới, có hơn 300 triệu trẻ em trong độ tuổi từ 5-17 đang phải lao động kiếm tiền. Hầu hết những trẻ em này phải làm việc để hỗ trợ tài chính cho gia đình, khiến cho nghèo đói và lao động trẻ em trở thành yếu tố góp phần đáng kể khiến nhiều trẻ em không được đến trường.[5]
  • Xung đột: Trẻ em ở các quốc gia có chiến tranh, bạo lực vũ trang không có cơ hội để đến trường đi học. Có khoảng 27 triệu trẻ em đang không được đến trường ở 24 quốc gia đang chịu ảnh hưởng bởi xung đột. Những đứa trẻ này thường phải di dời khỏi nơi ở và dành phần lớn tuổi thơ trong các trại tị nạn. Trẻ em tị nạn có khả năng không được đến trường cao gấp năm lần so với những trẻ em khác. Chỉ 50% trẻ em tị nạn được học tiểu học, và dưới 25% đi học ở bậc trung học.[6] Xung đột cũng làm hư hỏng, hoặc thậm chí phá hủy trường học và cơ sở hạ tầng, khiến cho việc quay trở lại trường học càng trở nên khó khăn.
  • Vị trí địa lý: nơi trẻ em sinh ra và lớn lên có thể không lý tưởng cho việc đi học. Điều này bao gồm những yếu tố như điều kiện thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, khó tiếp cận, và thiếu phương tiện đi lại. Với vị trí địa lý không thuận lợi, không có nhiều trường được mở, và ở nhiều nơi trẻ em phải đi bộ nhiều cây số mới có thể đến được trường tiểu học gần nhất. Không chỉ ảnh hưởng đến khả năng đến trường của cá nhân học sinh, vị trí địa lý còn ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng và chất lượng của giáo viên vì khó có thể thu hút được giáo viên (chứ chưa nói gì đến giáo viên giỏi) về những vùng xa xôi, hẻo lánh. Nhiều vị trí địa lý cũng có rủi ro cao hơn về thiên tai, và có hàng trăm nghìn trẻ em quanh thế giới bị đình trệ hoặc gián đoạn việc học do trường lớp bị hư hại nghiêm trọng, thậm chí phá hủy bởi điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Điển hình là vào năm 2017, các trận lũ ở Nam Á đã phá hủy và làm hư hại khoảng 18.000 trường học và khiến 1,8 triệu trẻ em không được đi học.[7]
  • Phân biệt đối xử: Nhiều trẻ em và thanh thiếu niên phải đối mặt với sự phân biệt đối xử vì giới tính, sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, tình trạng khuyết tật hoặc các đặc điểm khác. Phân biệt đối xử có thể tạo ra các rào cản đối với khả năng tiếp cận với giáo dục cũng như cản trở trẻ em đạt được kết quả cao trong học tập. Ví dụ, trẻ em gái có vẫn có khả năng cao hơn trẻ em trai để không được đi học - có khoảng 15 triệu trẻ em gái (chủ yếu là những em sống trong cảnh nghèo đói) sẽ không bao giờ được đến trường, so với 10 triệu bé trai. Khoảng cách này thậm chí còn lớn hơn ở các khu vực xảy ra xung đột, nơi các bé gái có nguy cơ không được đi học cao hơn gấp 2,5 lần so với các bé trai.[8] Không chỉ là giới tính, tình trạng khuyết tật cũng là lý do thường thấy khi trẻ em không đến trường: trẻ em khuyết tật có ít cơ hội đến trường hơn tới 6 lần so với trẻ em không khuyết tật.[9]


3. Ở Việt Nam thì sao?
Hình minh họa: Một lớp học ở tỉnh Kon Tum trong điều kiện cơ sở vật chất khó khăn, thiếu thốn
Phổ cập giáo dục, đặc biệt là xóa mù chữ, là một chính sách được chính phủ dành nhiều sự quan tâm. Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi 15-60 của Việt Nam đạt tới 97%[10] tuy nhiên, vẫn có một bộ phận trẻ em (đặc biệt là trẻ em dân tộc thiểu, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo) không thể đến trường, hoặc việc học bị gián đoạn. Hiện cả nước có 19/53 dân tộc thiểu số có tỷ lệ trẻ em không được đến trường trên 20%, trong đó dân tộc Brâu có tỷ lệ cao nhất (35,4%), tiếp đến là dân tộc Xtiêng (35,3%). Riêng cấp tiểu học, cứ 100 em trong độ tuổi đi học cấp tiểu học thì có khoảng 2 em không được đến trường.[11]

Có nhiều yếu tố dẫn đến tình trạng này, và một đứa trẻ có thể chịu ảnh hưởng từ sự cộng dồn của nhiều yếu tố khác nhau. Tiêu biểu có thể kể đến như giao thông ở các vùng này thường xa xôi, hiểm trở, tiềm ẩn nhiều nguy hiểm; trường học nhiều nơi vẫn là phòng tạm, thiếu thốn cơ sở vật chất, các phòng chức năng, hay các thiết bị công nghệ cơ bản. Vấn đề bất đồng ngôn ngữ trong quá trình dạy học cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm cơ hội đi học ở nhóm trẻ này, vì tiếng mẹ đẻ còn chưa thông thạo đã phải học tiếng phổ thông nên gặp nhiều trở ngại. Ngoài ra, khó khăn về kinh tế cộng thêm tư tưởng cổ hủ, trọng nam khinh nữ vẫn đang ngăn cản trẻ em, nhất là trẻ em gái, được đến trường.


4. Giải pháp cho vấn đề là gì?

Không có một giải pháp duy nhất tối ưu nào cho vấn đề tiếp cận giáo dục cho trẻ em và thanh thiếu niên, bởi những ngữ cảnh và thử thách khác nhau sẽ đòi hỏi các giải pháp khác nhau. Những giải pháp này cần được áp dụng đồng thời thì mới có thể giải quyết triệt để các vấn đề liên quan đến tiếp cận giáo dục. Dưới đây là một số giải pháp thường được đề xuất hoặc triển khai bởi nhiều chính phủ và tổ chức trên thế giới:

Giải pháp cho các nguyên nhân mang tính giáo dục
  • Xây dựng thêm trường học, cung cấp đồ dùng, thiết bị, và đào tạo giáo viên[12]: Một trong những giải pháp cơ bản và hiệu quả nhất để tăng khả năng tiếp cận giáo dục là đảm bảo có đủ trường lớp, tài liệu học tập và giáo viên có trình độ để đáp ứng nhu cầu của người dân. Điều này đòi hỏi phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, và nguồn nhân lực cũng như huy động hỗ trợ tài chính và kỹ thuật từ các nhà tài trợ và đối tác. Ví dụ, tổ chức Đối tác Toàn cầu về Giáo dục (Global Partnership for Education - GPE), hợp tác cùng tổ chức Ngân hàng Thế giới thường xuyên hỗ trợ các dự án giáo dục ở các quốc gia có thu nhập thấp về đào tạo giáo viên, cập nhật chương trình học, mua và phân phối đồ dùng, trang thiết bị dạy học vòng quanh thế giới và đạt được rất nhiều kết quả đáng ngưỡng mộ (xem thêm về kết quả hợp tác giữa GPE và Ngân hàng thế giới tại ĐÂY[13]).
  • Thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số bằng cách mở rộng kết nối internet, thiết bị, và kỹ năng số: Một giải pháp khác là tận dụng tiềm năng của công nghệ để nâng cao cơ hội và kết quả học tập cho trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt là vùng sâu vùng xa hoặc nông thôn. Điều này đòi hỏi phải mở rộng truy cập internet và tính sẵn có của thiết bị cho học sinh và giáo viên, cũng như phát triển các năng lực số. Google là một tổ chức nổi bật trong việc tài trợ các tổ chức phi lợi nhuận tại địa phương cũng như của quốc gia đang nỗ lực cải thiện khả năng tiếp cận và chất lượng giáo dục cho các cộng đồng chưa nhận được dịch vụ, đặc biệt là trong các lĩnh vực kỹ năng số, giáo dục STEM, đào tạo giáo viên và học trực tuyến.
Giải pháp cho các nguyên nhân mang tính phi giáo dục: Hỗ trợ hòa nhập giáo dục cho các nhóm yếu thế: Một giải pháp quan trọng khác để tăng khả năng tiếp cận giáo dục là đảm bảo không trẻ em hoặc thanh thiếu niên nào bị bỏ lại phía sau hoặc bị tước đi những cơ hội học tập vì giới tính, khuyết tật, nghèo đói, dân tộc, ngôn ngữ, hay các yếu tố cá nhân khác. Điều này đòi hỏi phải thiết kế và thực hiện các chính sách và chương trình phù hợp với nhu cầu và quyền lợi của đối tượng người học đa dạng, cũng như cung cấp cơ sở hạ tầng, tài liệu, và các hỗ trợ khác. Cụ thể hơn:

Những chính sách liên quan đến phổ cập giáo dục và giáo dục bắt buộc cần phải được duy trì;

  • Chương trình giảng dạy phù hợp với đặc thù của các nhóm thiểu số hay các nhu cầu đa dạng của người học cần phải được phát triển và triển khai;
  • Các chiến dịch vận động, nâng cao nhận thức cho người dân vùng sâu vùng xa về giá trị của việc đến trường cần được tổ chức;
  • Các quỹ bảo trợ, các hoạt động thiện nguyện để cung cấp thêm nguồn lực dành riêng cho các nhóm yếu thế cũng cần được tiếp tục thực hiện.
  • v.v.

UNICEF là một tổ chức có tiếng trong việc hỗ trợ hòa nhập giáo dục thông qua các nỗ lực khác nhau như tư vấn chính sách cho các quốc gia, cung cấp các sáng kiến giáo dục để giúp trẻ em vùng sâu vùng xa, trẻ em khuyết tật, trẻ em yếu thế được tiếp cận giáo dục.

Ngoài những tổ chức quốc tế hướng tới việc cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em như đề cập ngắn gọn tới ở trên, còn rất nhiều những cơ quan, tổ chức khác ở các quy mô khác nhau, đã và đang nỗ lực hàng ngày để giải quyết vấn đề này. Có thể kể đến như tổ chức buildON của Mỹ đã quyên góp và xây dựng hơn 2.300 trường học ở các nước đang phát triển (ví dụ như Haiti, Mali, Nicaragua, Nepal, v.v.), tạo điều kiện học tập cho hơn 300.000 trẻ em và người lớn ở những nước này; hay như Sáng kiến Ưu tiên Giáo dục Toàn cầu (Global Education First Initiative - GEFI) với mục tiêu nâng cao vị thế chính trị của giáo dục, củng cố phong trào toàn cầu nhằm đạt được giáo dục chất lượng và thu hút các nguồn tài trợ thông qua các nỗ lực vận động chính sách bền vững. Việt Nam cũng có cho mình những tổ chức, dự án với những quy mô khác nhau: lớn thì có thể kể đến Quỹ Bảo vệ Trẻ em Việt Nam - tổ chức thường xuyên trao học bổng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, hoặc tặng xe đạp để các em có phương tiện đến trường, hay những dự án nhỏ hơn hướng đến tăng cơ hội được đi học của học sinh khó khăn, như Dự án được dạy (quyên góp và lắp đặt bộ năng lượng gió và mặt trời tại điểm bản để hỗ trợ thầy cô bám bản), Dự án được học (tặng laptop cũ còn tốt cho học sinh dân tộc), v.v. Không khó để tìm được những tổ chức, dự án này như thế này dù ở cấp độ địa phương, quốc gia, hay toàn cầu.

Những tổ chức này thường không hoạt động đơn lẻ - mặc dù có những chương trình, sáng kiến riêng, các tổ chức này vẫn hợp tác với nhau trong nhiều nỗ lực khác nhau. Một số ví dụ tiêu biểu bao gồm:

  • Ngân hàng Thế giới & Tổ chức Đối tác Giáo dục Toàn cầu (GPE) có quan hệ đối tác lâu dài để hỗ trợ những dự án giáo dục ở các nước đang phát triển. Ngân hàng Thế giới là nhà tài trợ lớn nhất cho GPE và cũng đóng vai trò là người được ủy thác, đại lý tài trợ và cơ quan điều phối các khoản tài trợ của GPE. Hai tổ chức làm việc cùng nhau để điều chỉnh các chiến lược, chính sách và thủ tục của họ, đồng thời tận dụng các nguồn lực và chuyên môn của họ để cải thiện kết quả giáo dục.
  • Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) & Sáng kiến Ưu tiên Giáo dục Toàn cầu (GEFI) đã hợp tác trong một số sáng kiến nhằm thúc đẩy giáo dục toàn cầu. Ví dụ, hai tổ chức này đã đồng chủ trì sự kiện “Học tập cho mọi người” cấp Bộ trưởng vào năm 2013, huy động cam kết hỗ trợ chính trị và tài chính cho giáo dục ở các quốc gia bị ảnh hưởng bởi xung đột và tình trạng khẩn cấp. Họ cũng đồng tổ chức Nhóm Vận động Thanh niên (Youth Advocacy Group) — nhóm thu hút những người trẻ tuổi trở thành người ủng hộ và tác nhân thay đổi giáo dục.
  • UNESCO & UNICEF: đều trực thuộc Liên hợp quốc, hai cơ quan này hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận giáo dục cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em bị thiệt thòi, yếu thế, hoặc bị ảnh hưởng bởi xung đột và khủng hoảng. Hai tổ chức này thường xuyên đồng xuất bản những báo cáo về tình hình, tiến bộ trong giáo dục quanh thế giới - những báo cáo này vừa đóng vai trò nâng cao nhận thức của cộng đồng, vừa có khả năng tác động đến chính sách của các quốc gia. UNESCO và UNICEF cũng làm việc cùng nhau để cung cấp hỗ trợ và hướng dẫn chính sách cho các quốc gia về các khía cạnh khác nhau của giáo dục, chẳng hạn như phát triển chương trình giảng dạy, đào tạo giáo viên, đánh giá học tập, phát triển giáo dục mầm non, học tập trực tuyến, v.v. Họ cũng hỗ trợ các quốc gia xây dựng và thực hiện các kế hoạch giáo dục quốc gia dựa trên phân tích toàn diện về tình hình và nhu cầu giáo dục.


5. Việc phổ cập giáo dục có gì gây tranh cãi?

Tầm quan trọng của giáo dục là không thể chối cãi, do đó mọi người đều có thể đồng ý rằng trẻ em cần được đảm bảo quyền được đi học. Tuy nhiên, vì nguồn lực có hạn, chưa có nhiều quốc gia có thể phổ cập giáo dục toàn dân tới các bậc học cao hơn, ví dụ là bậc Đại học. Ở bậc học này, học sinh thường phải làm một bài đánh giá và kết quả để quyết định đỗ/trượt dựa trên điểm chuẩn của trường, hoặc học sinh sẽ được xét tuyển thông qua các kết quả học tập, rèn luyện và các hoạt động ngoại khóa đã tham gia trước đó. Học sinh về cơ bản phải “đấu” với nhau để giành suất vào ngôi trường mà mình mong muốn.

Cũng bởi sự xuất hiện của một “cuộc chiến” như vậy, nhiều quốc gia đã đặt ra những chính sách nâng đỡ/ ưu đãi (affirmative action) dành cho những người thuộc nhóm được coi là yếu thế trong xã hội, với mục đích tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng, nơi mà điểm xuất phát của mỗi thí sinh gần nhau nhất có thể. Như đã đề cập đến rất nhiều ở các phần trước, những nhóm người yếu thế có ít cơ hội để tiếp cận với giáo dục hơn rất nhiều, từ đó dẫn đến kết quả học tập cũng sẽ thấp hơn. Nếu đem kết quả “thuần” này ra để so sánh với một học sinh khác có điều kiện hơn, sau đó quyết định ai là người xứng đáng hơn để được vào trường, những người vốn đã thiệt thòi sẽ tiếp tục chịu thiệt thòi, tiếp tục mất đi cơ hội giáo dục, hay nói cách khác là cơ hội để thay đổi cuộc sống.

Do đó, các trường đại học quanh thế giới thường áp dụng chế độ cộng điểm [với hình thức dùng điểm của một (tổ hợp các) bài thi để quyết định đỗ/trượt] hoặc dành một tỷ lệ/chỉ tiêu nhất định các suất vào trường cho một số nhóm thiểu số/ yếu thế. Có thể kể đến một vài ví dụ như Việt Nam có cộng điểm khu vực và cộng điểm cho đối tượng chính sách trong kỳ thi tốt nghiệp THPT; nhiều trường đại học ở Mỹ đã từng giữ một số chỗ hoặc đặt một tỷ lệ tuyển sinh nhất định cho các nhóm chủng tộc/sắc tộc cụ thể (thường là người Mỹ gốc Phi, gốc Tây Ban Nha); Ấn Độ đặt ra hạn ngạch tuyển sinh đại học cho các nhóm thiệt thòi (hay nôm na là nhóm đẳng cấp thấp trong xã hội); ở Australia có những học bổng đại học dành riêng cho phụ nữ trong ngành STEM; v.v.

Loại chính sách này, dù dưới hình thức nào, vẫn gây ra rất nhiều tranh cãi từ khi mới xuất hiện. Mặc dù không thể phủ nhận thành công của nó trong việc thúc đẩy sự đa dạng trong môi trường học tập, đồng thời tăng cường cơ hội cho các nhóm yếu thế, nó cũng đối mặt với nhiều lời chỉ trích. Nhiều người cho rằng nó tạo ra sự phân biệt đối xử đảo ngược - nghĩa là giờ đây nhóm được cho là chiếm ưu thế sẽ bị tổn hại và mất cơ hội. Điều này có thể làm gia tăng sự thù địch và xung đột giữa các nhóm với nhau. Không những vậy, nó có nguy cơ hạ thấp hiệu suất và kết quả của trường học do không chọn thí sinh giỏi nhất, thay vào đó bị giới hạn lựa chọn theo giới tính, sắc tộc, v.v. Cuối cùng, chính sách nâng đỡ/ ưu đãi còn có khả năng phá hoại lòng tự trọng và sự tự tin của các nhóm yếu thế vì họ có thể cảm thấy rằng họ chỉ đạt được những điều này không phải nhờ năng lực của bản thân, mà chỉ đơn thuần là do họ là phụ nữ/ người dân tộc/ da màu, v.v.

Bất chấp những nhược điểm, các chính sách nâng đỡ/ ưu đãi này vẫn được coi là cần thiết để giảm bất bình đẳng trong xã hội. Chắc chắn đây không phải là giải pháp hoàn hảo, nhưng nó là giải pháp cần thiết. Những chính sách này thừa nhận rằng bình đẳng không có nghĩa là mọi người phải được đối xử giống như nhau, mà cần đối xử với các đối tượng khác nhau dựa trên nhu cầu và hoàn cảnh của họ. Không những vậy, những chính sách này công nhận rằng có những rào cản và thành kiến mang tính hệ thống đang ngăn cản các nhóm yếu thế tiếp cận với những cơ hội cơ bản. Do đó, chính sách nâng đỡ không nên bị bãi bỏ hoặc cấm, mà cần được cải thiện, tinh chỉnh. Đây nên được coi là một loại chính sách tạm thời và cần được điều chỉnh theo ngữ cảnh.  


6. Cá nhân có thể làm gì?

Trước tiên hết, cá nhân cần hiểu rằng giáo dục là quyền mà tất cả mọi người đều được hưởng, từ đó giúp những người xung quanh cũng nhận thức và chấp nhận điều này. Để đóng góp vào công cuộc cải thiện tiếp cận giáo dục một cách trực tiếp hơn, một cách đơn giản mà cá nhân có thể làm là đóng góp tiền bạc và thời gian cho những dự án có mục đích rõ ràng, uy tín, và minh bạch. Đồng thời, cần nhớ rằng không chỉ những yếu tố thuần giáo dục (trường lớp, giáo viên, sách vở, v.v.) là khía cạnh duy nhất mà các nỗ lực nên tập trung vào — cá nhân có thể mở rộng sự giúp đỡ của mình đến các vấn đề phi giáo dục nhưng cũng ảnh hưởng lớn không kém tới khả năng được đi học của trẻ em, ví dụ như khắc phục hậu quả thiên tai; hỗ trợ bữa ăn sáng/trưa cho trẻ em; thay đổi nhận thức của cha mẹ về giáo dục; hỗ trợ tiền của, việc làm cho gia đình các em; đấu tranh bài trừ lao động trẻ em; v.v.


Nguồn tham khảo

K11: Năng lượng bền vững

Năng lượng bền vững: con đường duy nhất cho tương lai


Trong thế giới hiện đại ngày nay, nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng tăng cao, đồng thời môi trường đang phải chịu những hậu quả nghiêm trọng do sử dụng các nguồn năng lượng truyền thống. Nếu cứ tiếp tục với tình hình này, trái đất sẽ bị tổn hại nghiêm trọng, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của con người. Để đối phó với tình trạng này, năng lượng bền vững là một trong những giải pháp cần phải được cân nhắc. Với những lợi ích vượt trội về môi trường và kinh tế, việc ủng hộ năng lượng bền vững không chỉ là nhiệm vụ của các chính phủ và tổ chức quốc tế, mà còn là trách nhiệm của mỗi cá nhân trong xã hội.

“Bền vững” là khái niệm được sử dụng rất phổ biến trong thời gian gần đây. Nói một cách đơn giản nhất, tính chất “bền vững” nên được thể hiện qua việc ta có thể đáp ứng nhu cầu của con người mà không làm hại đến con người và môi trường hiện tại, đồng thời không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Với cách hiểu như vậy, năng lượng bền vững cần đạt được ít nhất hai tiêu chí: (1) được hình thành liên tục hoặc có thể coi như vô hạn, VÀ (2) không phát thải hoặc phát thải ít khí nhà kính, chất gây ô nhiễm vào không khí.   

Sau đây, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá về thực trạng sử dụng năng lượng hiện tại cũng như những lý do vì sao chúng ta nên ủng hộ chuyển đổi sang năng lượng bền vững. Đồng thời, những thách thức cũng sẽ được bàn luận để ta có cái nhìn toàn diện về vấn đề, từ đó rút ra những giải pháp phù hợp nhất để biến năng lượng bền vững trở thành nguồn năng lượng chính của con người trong một tương lai không xa.

Tỉ lệ các loại năng lượng được con người sử dụng trên toàn cầu vào năm 2022[1]
1. Phần lớn năng lượng chúng ta đang sử dụng là không bền vững

Hầu hết các nguồn năng lượng mà chúng ta đang sử dụng là những nguồn không bền vững, bao gồm dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, than đá, và năng lượng hạt nhân. Những nguồn năng lượng này bị coi là không bền vững vì nguồn cung cấp của chúng bị giới hạn ở số lượng mà chúng ta có thể khai thác từ trái đất. Than đá, khí đốt tự nhiên và dầu mỏ được hình thành qua hàng nghìn năm từ tàn tích bị chôn vùi của các loại động, thực vật biển cổ đại sống cách đây hàng triệu năm. Đó là lý do vì sao chúng ta còn gọi những nguồn năng lượng này là nhiên liệu hóa thạch.

Năng lượng hạt nhân được sản xuất bằng cách phân tách nguyên tử của uranium để tạo ra nhiệt và điện năng. Các nhà khoa học cho rằng uranium được tạo ra từ hàng tỷ năm trước khi các ngôi sao hình thành. Uranium được tìm thấy trên khắp vỏ trái đất, nhưng hầu hết đều rất khó hoặc rất tốn kém để khai thác và chế biến thành nhiên liệu cho các nhà máy điện hạt nhân. Mặc dù năng lượng hạt nhân không thải khí nhà kính, từ đó tốt hơn cho con người và môi trường, nhưng nó vẫn không được coi là một loại năng lượng bền vững vì sớm muộn thì nó cũng sẽ cạn kiệt.

Theo dự đoán của các nhà khoa học, trữ lượng dầu mỏ sẽ cạn kiệt vào năm 2043. Điều tương tự cũng sẽ xảy ra với than đá và khí đốt tự nhiên - ngày chúng ta không còn những nhiên liệu hóa thạch này đang đến rất nhanh. Nhưng lý do mà con người cần phải khẩn trương tìm kiếm các nguồn năng lượng mới không chỉ vì các nguồn năng lượng này đang cạn kiệt, mà vì tác động nghiêm trọng của chúng lên hành tinh và sức khỏe của chúng ta[2].

Không phải bỗng nhiên mà các loại năng lượng hóa thạch lại chiếm tỷ lệ lớn như vậy trong thống kê sử dụng năng lượng bởi con người. Nhiên liệu hóa thạch xuất hiện ở mọi ngóc ngách trong cuộc sống, dù chúng ta có chú ý hay không. Đầu tiên phải kể đến giao thông vận tải: sử dụng chủ yếu là xăng và dầu diesel, cho dù đó là đi học, đi làm, đi chơi, đi du lịch đường dài, chúng ta đều đang tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch để vận hành xe máy, ô tô, xe buýt, máy bay, xe lửa, v.v. Tiếp theo, mọi thiết bị điện mà chúng ta sử dụng hàng ngày, như quạt, điều hòa, máy tính, sạc điện thoại, tivi, đèn, v.v đều được chạy phần lớn bởi nhiên liệu hóa thạch (ở Việt Nam thường chỉ có thủy điện được nhắc đến, nhưng thực tế nguồn này chỉ tạo ra khoảng 29% lượng điện của cả nước, trong khi nhiệt điện than và khí chiếm tới khoảng gần 70%). Thậm chí tới cả đến cả ngôi nhà chúng ta đang ở, hay cụ thể hơn là viên gạch, xi măng, sắt thép, sơn, v.v. đều trải qua quá trình sản xuất mà sử dụng nhiên liệu hóa thạch làm nguồn năng lượng chính. Hay thực chất, nhiên liệu hóa thạch cũng “ẩn mình” trong những sản phẩm và dịch vụ mà con người sử dụng hàng ngày: từ nhựa được sử dụng trong bao bì, túi nilong, đồ gia dụng, đến sợi tổng hợp trong quần áo, khăn, thảm sử dụng các dẫn xuất từ nhiên liệu hóa thạch. Ngoài ra, nhiều sản phẩm chăm sóc cá nhân, mỹ phẩm, chất tẩy rửa cũng có chứa các thành phần gốc dầu. Có thể thấy cuộc sống của con người đang phụ thuộc rất nhiều vào loại nhiên liệu không bền vững này.  


2. Sử dụng năng lượng không bền vững có hại đến nhường nào?

Một số tác động tiêu cực của việc lạm dụng năng lượng không bền vững bao gồm[3]:

Gây ra biến đổi khí hậu

Nhiên liệu hóa thạch chiếm khoảng 80% nhu cầu năng lượng sơ cấp toàn cầu hiện nay, và hệ thống năng lượng là nguồn tạo ra khoảng hai phần ba lượng khí thải CO2 trên toàn thế giới.

Cả CO2 và các loại khí nhà kính khác đều có thể tích tụ và tỏa nhiệt. Như các chuyên gia đã chỉ ra, sự gia tăng nồng độ CO2 trong khí quyển dẫn đến nhiệt độ trái đất tăng lên đáng kể. Ngày nay, nhiệt độ trái đất đã tăng hơn 1oC kể từ thời kỳ tiền công nghiệp. Nếu xu hướng này vẫn tiếp tục, nghĩa là tỷ lệ nhiên liệu hóa thạch hiện tại được duy trì và dự báo rằng nhu cầu năng lượng sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050 được chứng minh là đúng, thì sẽ rất khó để kiểm soát nhiệt độ tăng lên trong mức cho phép. Sự nóng lên này sẽ gây ra những hậu quả khôn lường cho hành tinh của chúng ta.

Tràn dầu, dầu loang

Trong danh sách các thảm họa môi trường do các hoạt động của con người gây ra, dầu loang/ tràn dầu là một trong những thảm họa nghiêm trọng và phổ biến nhất. Một trong những khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất trên hành tinh là khu rừng rậm Amazon.

Hơn 400 cộng đồng ở Amazon thuộc Peru đã bị ảnh hưởng từ năm 2014 do sự cố tràn dầu thường xuyên, và giờ đây trong cơ thể những người dân ở đây có thể tìm thấy chì, thủy ngân, và các loại kim loại nặng khác.

Tỉnh Sucumbios, một phần của Amazon thuộc Ecuador, là một trong những khu vực vì ảnh hưởng nặng nề nhất bởi ô nhiễm dầu. Thực phẩm, nước, và không khí bị ảnh hưởng bởi nhiều sự cố tràn dầu. Khu rừng nhiệt đới có rất nhiều những ống khói khổng lồ đốt cháy khí thải từ quá trình khai thác dầu và cũng gây ô nhiễm nước mưa - nguồn nước chính của cư dân trong khu vực.

Mưa axit

Mưa axit là một trong những hậu quả của ô nhiễm không khí. Nó xảy ra khi khí thải gây ô nhiễm từ các nhà máy, ô tô hoặc nồi hơi sưởi ấm trung tâm tiếp xúc với độ ẩm không khí. Những khí thải này được gây ra bởi việc đốt nhiên liệu hóa thạch và dẫn đến quá trình axit hóa đất, hồ, và biển, dẫn đến thiệt hại cho hệ thực vật và động vật trên cạn và dưới biển.

Ảnh hưởng đến sức khỏe con người

Thực tế là tất cả những hậu quả của việc sử dụng năng lượng không bền vững nêu trên đều có tác động đến sức khỏe con người theo cách này hay cách khác. Tuy nhiên, nhìn vào dữ liệu cụ thể hơn, ô nhiễm không khí do đốt nhiên liệu hóa thạch gây ra 4,5 triệu ca tử vong trên toàn thế giới mỗi năm, theo một nghiên cứu của Greenpeace và Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí Sạch (CREA). Chưa kể, theo ước tính của WHO, khoảng 4,2 triệu ca tử vong sớm xảy ra hàng năm do tiếp xúc với các hạt kim loại liên quan đến việc đốt nhiên liệu hóa thạch.

Với những ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng như đã đề cập đến ở trên, đã đến lúc chúng ta cần phải cắt giảm sự phụ thuộc đối với các nguồn nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, việc loại bỏ hoàn toàn loại nhiên liệu này ra khỏi cuộc sống của con người trong một sớm một chiều là điều rất khó vì như đã thấy, nguồn nhiên liệu này đã ăn sâu bám rễ vào từng ngóc ngách của đời sống hàng ngày. Do đó, chúng ta nên hướng tới việc giảm dần khai thác và sử dụng nhiên liệu hóa thạch, phối hợp sử dụng các loại năng lượng bền vững hơn để những thế hệ sau này vẫn có khả năng đáp ứng nhu cầu về năng lượng.



3. Vì sao năng lượng bền vững là năng lượng của tương lai?

Như đã đề cập từ đầu, năng lượng bền vững là loại năng lượng đảm bảo được nguồn cung dài hạn cho con người, đồng thời không tạo ra hoặc tạo ra tương đối ít khí, chất thải làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cũng như sức khỏe con người.

Một số loại năng lượng bền vững bao gồm:
K11 2.png
Trên thực tế, những loại năng lượng bền vững không phải chỉ gần đây mới xuất hiện. Trải dài xuyên suốt lịch sử loài người, sinh khối từ thực vật là nguồn năng lượng chính, được đốt cháy để lấy nhiệt và làm thức ăn cho động vật được dùng để vận chuyển và cày xới. Các nguồn năng lượng không bền vững (hay không thể tái tạo) chỉ bắt đầu trở thành nguồn năng lượng chính từ những năm 1910[1], và từ đó chứng kiến sự bùng nổ trong sản xuất và tiêu thụ các loại nhiên liệu hóa thạch.

Các loại năng lượng bền vững, nhờ vào tính chất ít gây ô nhiễm, có thể giúp cải thiện sức khỏe cộng đồng, giảm nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến hô hấp, ung thư, các vấn đề về tim mạch và tử vong sớm. Đồng thời, chúng có thể giúp giảm phát thải khí nhà kính và giảm thiểu biến đổi khí hậu cũng như các tác động kéo theo như hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, mực nước biển dâng, suy giảm đa dạng sinh học, mất an ninh lương thực. Năng lượng bền vững cũng giúp bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, bởi chúng không làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên hữu hạn hoặc gây hại cho hệ sinh thái như nhiên liệu hóa thạch[4].


4. Vì sao con người vẫn chưa thể chuyển đổi hoàn toàn sang năng lượng bền vững?

Dù đã có nhiều bước tiến lớn trong công nghệ cũng như phổ biến giá trị của năng lượng bền vững với tương lai con người, không thể phủ nhận giờ đây năng lượng được tạo ra và sử dụng bởi các nguồn bền vững vẫn chỉ chiếm một phần tương đối nhỏ so với nhiên liệu hóa thạch. Sau đây là một số nguyên nhân thường được nhắc đến:


Nguyên nhân liên quan đến hạn chế về mặt kỹ thuật của năng lượng bền vững[5]

  • Công nghệ chưa có đột phá mạnh mẽ, dẫn đến hạn chế hiệu suất, hiệu quả và độ tin cậy của các công nghệ năng lượng tái tạo/bền vững, chẳng hạn như tấm pin mặt trời, tuabin gió, pin và hydro. Những công nghệ này vẫn phải đối mặt với những thách thức như tính gián đoạn, dễ thay đổi, khả năng lưu trữ, truyền tải, tích hợp và tính an toàn.
  • Chi phí sản xuất, lắp đặt còn tương đối cao so với nhiên liệu hóa thạch, đồng thời chưa nhận được nhiều trợ cấp, hỗ trợ từ nhà nước, chính phủ nên năng lượng bền vững có thể vẫn kém cạnh tranh, kém hấp dẫn hơn so với các nguồn năng lượng truyền thống.
  • Sản xuất, lắp đặt cần lượng rất lớn về đất đai và vật liệu, từ đó lấy mất nơi cư trú của động, thực vật, gây ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, hệ sinh thái, và tài nguyên thiên nhiên[6].
  • Vật liệu sử dụng trong năng lượng bền vững có thể gây hại cho môi trường. Một số công nghệ năng lượng tái tạo, chẳng hạn như pin, tấm pin mặt trời và tua-bin gió, phụ thuộc vào các loại kim loại đất hiếm. Đất hiếm được khai thác bằng cách đào những hố lộ thiên rộng lớn trong lòng đất, có thể gây ô nhiễm môi trường và phá vỡ hệ sinh thái. Khi không được quản lý chặt chẽ, việc khai thác kim loại đất hiếm có thể tạo ra các ao nước thải chứa đầy axit, kim loại nặng, chất phóng xạ, và rò rỉ vào các mạch nước ngầm. Xử lý quặng thô thành dạng hữu ích để chế tạo nam châm và các công nghệ khác phục vụ cho năng lượng tái tạo cũng tốn rất nhiều thời gian, sử dụng một lượng nước lớn và các hóa chất độc hại, đồng thời tạo ra một lượng lớn chất thải[7].


Nguyên nhân liên quan đến những việc năng lượng bền vững ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lực, lợi ích của một số nhóm người:

  • Ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch và những bên đang ủng hộ việc tiếp tục duy trì nguồn năng lượng này là bên nhận được lợi ích trong việc duy trì hiện trạng và trì hoãn, cản trở quá trình chuyển đổi sang các nguồn năng lượng phát thải carbon thấp. Họ có thể sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau, chẳng hạn như vận động hành lang, quảng cáo, kiện tụng, thông tin sai lệch hoặc phá hoại, để tác động đến các chính sách, thị trường, dư luận, hoặc cơ sở hạ tầng ủng hồ nhiên liệu hóa thạch. Động cơ cho những việc làm này thường là thị phần và lợi nhuận.
  • Các công ty điện lực và nhà máy phát điện hiện tại, những người có thể phải đối mặt với tổn thất tài chính hoặc tài sản bị mắc kẹt do sự cạnh tranh và tích hợp ngày càng tăng của các nguồn năng lượng tái tạo. Họ có thể phản đối hoặc làm chậm việc áp dụng các chính sách hoặc công nghệ năng lượng tái tạo, chẳng hạn như đo lường mạng, biểu giá điện đầu vào hoặc tiêu chuẩn danh mục đầu tư năng lượng tái tạo, những điều này có thể làm xói mòn thị phần hoặc doanh thu của họ
  • Công nhân trong ngành nhiên liệu hóa thạch có thể bị mất việc làm hoặc có thu nhập thấp hơn do quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch, điều này có thể ảnh hưởng đến sinh kế và phúc lợi của họ.
  • Những cộng đồng phụ thuộc vào việc khai thác hoặc tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch để phát triển kinh tế, xã hội có thể sẽ gặp phải những thách thức hoặc gián đoạn do quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch. Văn hóa, bản sắc, và sự gắn kết cộng đồng có thể bị ảnh hưởng[8].

Dù một số những nguyên nhân được đề cập đến trên đây có lý riêng của nó, điều này không có nghĩa rằng năng lượng tái tạo không đáng để hướng đến, mà đúng hơn là năng lượng sạch nên được thực hiện với sự cân nhắc cẩn thận về những đánh đổi và hệ quả liên quan. Câu hỏi được đặt ra không còn là liệu chúng ta có nên chuyển sang sử dụng năng lượng sạch hay không, mà là chúng ta làm điều đó như thế nào để đảm bảo tính giảm thiểu tối đa những tác động xấu đến con người và môi trường.


Hơn nữa, những tác động tiềm ẩn của năng lượng tái tạo về mặt con người cũng như môi trường này thực chất không nhiều và nguy hiểm bằng nhiên liệu hóa thạch, chẳng hạn như ô nhiễm không khí, suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, các vấn đề về sức khỏe, v.v., và hầu hết những chi phí này đều do các nhóm dễ bị tổn thương hay yếu thế nhất gánh chịu[9]. Do đó, năng lượng tái tạo, bền vững vẫn là năng lượng của tương lai và cần nhận được sự quan tâm, đầu tư thích đáng.


5. Một số nỗ lực nổi bật trong việc sử dụng các nguồn năng lượng bền vững trên thế giới

Với những rào cản kể trên, rất nhiều nỗ lực đã được thực hiện để chuyển đổi sang năng lượng bền vững. Các nhóm nỗ lực nổi bật bao gồm:

  • Phát triển công nghệ: để tăng hiệu suất cũng như giảm giá thành, công nghệ liên tục được thử nghiệm và phát triển để có thể trở thành một công nghệ dễ tiếp cận cho con người. Các hệ thống năng lượng trên các khu vực và quốc gia cũng được tích hợp và kết nối để sử dụng lưới điện thông minh, hệ thống lưu trữ, và mạng lưới truyền tải. Điều này có thể giúp cân bằng cung và cầu, tăng độ tin cậy và khả năng phục hồi, đồng thời giảm thất thoát và khí thải. Một ví dụ điển hình là sự phát triển của pin quy mô lưới (grid-scale batteries): những cơ sở pin quy mô lớn có thể lưu trữ năng lượng từ các nguồn năng lượng tái tạo như mặt trời và gió và cung cấp cho lưới điện khi cần[10].
  • Cải thiện chính sách: để có thể làm giảm ảnh hưởng của những “ông lớn” trong ngành nhiên liệu hóa thạch cũng như tạo điều kiện cho năng lượng bền vững, các chính phủ và các tổ chức quốc tế đã và đang nỗ lực cải cách các khung chính sách của mình, chẳng hạn như trợ cấp, thuế suất, quy định và tiêu chuẩn, để tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các công nghệ năng lượng tái tạo và loại bỏ các rào cản đối với việc áp dụng chúng. Các chính sách này cũng có thể khuyến khích đổi mới, đầu tư và hợp tác trong lĩnh vực năng lượng bền vững[11].
  • Nâng cao nhận thức: nhiều tổ chức, chiến dịch đã tập trung vào chia sẻ kiến thức để thay đổi nhận thức của người dân về lợi ích cũng như thách thức của năng lượng tái tạo. Điều này có thể giúp thúc đẩy sự ủng hộ của công chúng, sự chấp nhận của xã hội và thay đổi hành vi đối với các nguồn năng lượng bền vững.


6. Cá nhân có thể làm gì để đóng góp vào quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch và bền vững?

Mặc dù phần lớn trong chúng ta khó có thể quyết định điện sử dụng đến từ năng lượng tái tạo hay không tái tạo, vẫn có những việc mà mỗi cá nhân có thể làm để góp phần vào công cuộc quan trọng này:

  • Giảm mức tiêu thụ năng lượng và cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng bằng cách sử dụng bóng đèn LED, bộ điều nhiệt thông minh, vật liệu cách nhiệt và thiết bị tiết kiệm năng lượng hoặc bằng cách áp dụng các hành vi như tắt đèn và thiết bị khi không sử dụng, điều chỉnh nhiệt độ điều hòa và giặt quần áo bằng nước lạnh;
  • Sử dụng các phương tiện giao thông sạch bất cứ khi nào có thể, chẳng hạn như đi bộ, đi xe đạp, phương tiện công cộng, xe điện hoặc đi chung xe, hoặc bằng cách giảm nhu cầu đi lại khi có thể, đặc biệt là đối với các chuyến bay đường dài có lượng khí thải carbon cao;
  • Giáo dục bản thân và những người khác về những lợi ích và thách thức của quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo, bằng cách đọc các nguồn thông tin đáng tin cậy, tham dự các sự kiện hoặc hội thảo trên web, tham gia các mạng hoặc nhóm hoặc chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của họ với gia đình, bạn bè, hàng xóm hoặc đồng nghiệp;
  • Hỗ trợ các chính sách và dự án năng lượng tái tạo trong cộng đồng và quốc gia của họ, bằng cách bỏ phiếu cho các ứng cử viên ủng hộ quá trình chuyển đổi năng lượng sạch, ký tên thỉnh nguyện, tham gia các chiến dịch, tham gia tư vấn hoặc đầu tư vào các hợp tác xã năng lượng tái tạo tại địa phương hoặc các nền tảng gây quỹ cộng đồng.


Nguồn tham khảo

K12: Chất lượng cuộc sống

Đảm bảo chất lượng cuộc sống cho mọi người: Mục tiêu dài hạn của mỗi quốc gia

“Sống đàng hoàng”, “có chất lượng cuộc sống tốt”, hay “một cuộc sống tử tế” là một khát vọng nằm ở trung tâm của sự tồn tại của con người. Ước muốn này bao gồm các nhu cầu và điều kiện cơ bản cần thiết để cá nhân, cộng đồng cảm thấy an toàn, hạnh phúc, và có nhân phẩm. Mặc dù khái niệm về cuộc sống tử tế có thể khác nhau giữa các nền văn hóa, bối cảnh, hay thậm chí giữa các cá nhân với nhau, nhưng vẫn có một số mẫu số chung, hay những khía cạnh được coi là tối thiểu mà ai cũng có thể đồng ý, chẳng hạn như thức ăn, nước uống, nơi ở, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, v.v.

Việc theo đuổi một cuộc sống có chất lượng bắt nguồn từ các nguyên tắc công bằng xã hội và nhân quyền. Nó công nhận rằng mọi người đều xứng đáng có cơ hội phát triển và phát huy hết tiềm năng của mình, bất kể xuất thân hay hoàn cảnh của họ. Cuộc sống đàng hoàng không chỉ giới hạn ở sự tồn tại đơn thuần; nó bao gồm cả những yếu tố thiết yếu giúp các cá nhân phát triển về thể chất, tinh thần, và cảm xúc.

Thật không may, hàng triệu người trên thế giới vẫn bị tước đoạt những yêu cầu cơ bản để có một cuộc sống đàng hoàng. Nghèo đói, bất bình đẳng, phân biệt đối xử và các chính sách xã hội không phù hợp góp phần làm cho những thách thức này tồn tại dai dẳng. Sau đây chúng ta sẽ đi sâu vào các yếu tố quyết định một cuộc sống có chất lượng, từ đó phân tích nguyên nhân và giải pháp cho từng yếu tố để có thể hướng tới cải thiện chất lượng cuộc sống cho con người nói chung.


1. Một cuộc sống có chất lượng phụ thuộc vào những yếu tố nào?

Mặc dù có nhiều định nghĩa về một cuộc sống có chất lượng, nhưng ở mức tối thiểu, một cuộc sống có chất lượng cần có được các yếu tố sau đây:

  • Thực phẩm đủ dinh dưỡng: được tiếp cận với thực phẩm bổ dưỡng và đầy đủ là một khía cạnh cơ bản của một cuộc sống đàng hoàng. Khía cạnh này bao gồm khả năng tiếp cận chế độ ăn uống cân bằng đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cũng như với nguồn thực phẩm sạch và an toàn.
  • Tiếp cận với nước sạch và vệ sinh: con người cần nước sạch để uống, nấu ăn, và vệ sinh cá nhân, do đó khả năng tiếp cận nguồn nước an toàn vô cùng quan trọng với sự tồn tại của con người. Ngoài ra, các công trình vệ sinh phù hợp cũng rất quan trọng để đảm bảo sức khỏe, từ đó tiến gần hơn đến một cuộc sống tươm tất.
  • Nhà ở đủ điều kiện: một cuộc sống có chất lượng không thể thiếu khả năng tiếp cận nhà ở an toàn và giá cả phải chăng, đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản về tiện nghi và vệ sinh. Nhà ở đủ điều kiện là nơi có nước sạch, có công trình vệ sinh, và có thể bảo vệ con người khỏi những tác động nguy hại từ môi trường (nắng, mưa, bão, trộm cắp, v.v.)
  • Tiếp cận chăm sóc sức khỏe: Khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng và giá cả phải chăng là điều cần thiết để có một cuộc sống tử tế. Điều này bao gồm khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc phòng ngừa, điều trị bệnh tật, thương tích cũng như các loại thuốc thiết yếu.
  • An toàn: một cuộc sống có chất lượng bao gồm cả yếu tố về môi trường sống an toàn, không có bạo lực, tội phạm và phân biệt đối xử. Điều này có nghĩa là con người được hưởng công lý, được bảo vệ quyền con người của mình, và được đối xử bình đẳng.
  • Thu nhập đủ sống: thu nhập đủ sống là điều kiện cần thiết để đáp ứng các nhu cầu cơ bản như thực phẩm, quần áo, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, phương tiện đi lại. Thu nhập đủ sống cũng sẽ cho phép một người tiết kiệm và lập kế hoạch cho tương lai.
  • Giáo dục: Không được tiếp cận giáo dục có thể kéo dài vòng lặp nghèo đói và thiếu thốn. Nếu không nhận được sự giáo dục đầy đủ, các cá nhân có thể gặp khó khăn trong việc tìm việc làm hoặc có cơ hội với các công việc trả lương cao hơn, từ đó hạn chế khả năng cải thiện điều kiện sống của họ.
  • An sinh xã hội: các dịch vụ an sinh xã hội sẽ giúp đỡ các cá nhân và gia đình khi có sự cố xảy ra, hoặc trong các giai đoạn khó khăn. Bảo trợ xã hội có thể bao gồm trợ cấp xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp thất nghiệp, và lương hưu.

Nghe thì có vẻ nhiều, nhưng đây đều là những yếu tố tối quan trọng đối với cuộc sống của một con người; không có gì là thừa thãi hay đòi hỏi quá đáng ở đây cả. Để sinh tồn, một người bắt buộc phải có đủ thức ăn, nước uống đảm bảo chất lượng; được chăm sóc sức khỏe khi đau ốm, và có một nơi gọi là “nhà” để che nắng che mưa, để được nghỉ ngơi mà không lo lắng đến nguy hiểm rình rập. Tiếp đến, vì con người vốn là một loài động vật có tính xã hội cao, do đó khả năng hòa nhập vào xã hội, bình đẳng với những người khác trong xã hội không chỉ giúp chúng ta tồn tại, mà còn giúp chúng ta có một sức khỏe tinh thần tốt hơn. Cũng bởi sống cùng với rất nhiều cá thể khác trong cùng một xã hội, chúng ta cần phải cảm thấy được bảo vệ (bởi những người khác và bởi những người có quyền, như là chính phủ chẳng hạn). Khi thiếu đi một hoặc nhiều yếu tố kể trên của một cuộc sống chất lượng, con người trở nên rất dễ bị tổn thương.

Những yếu tố này đều có sự liên quan chặt chẽ với nhau. Một ví dụ cơ bản là sự liên kết với nhau giữa các yếu tố thu nhập - thức ăn - sức khỏe - giáo dục: Với một người có thu nhập thấp, khả năng cao là họ sẽ không đủ tiền mua thức ăn theo nhu cầu và phải sử dụng thức ăn kém chất lượng. Với nguồn dinh dưỡng nạp vào không đảm bảo, họ đối mặt với nguy cơ suy dinh dưỡng, bệnh tật cao, từ đó ảnh hưởng đến khả năng học tập, làm việc để cải thiện thu nhập. Chính vì sự liên kết này, chỉ cần thiếu đi một trong những yếu tố cơ bản thôi là những yếu tố khác sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí đẩy con người ta xuống mức cùng cực vô cùng nhanh chóng. Khi một người không thể tiếp cận hoặc đủ khả năng chi trả cho các yếu tố cơ bản của một cuộc sống có chất lượng, chẳng hạn như nhà ở an toàn, thực phẩm lành mạnh, nước sạch, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ xã hội, họ có thể trở nên dễ bị tổn thương hơn trước môi trường bên ngoài, thậm chí là trước những người khác. Họ cũng có thể có ít khả năng đối phó hoặc phục hồi hơn khi rơi vào các tình huống khó khăn, bất khả kháng. Chẳng hạn, đối với một người vốn đã chỉ có mức thu nhập vừa đủ để trang trải các chi phí cơ bản hàng ngày, một trận ốm nặng, hay một tai nạn bất ngờ xảy ra hoàn toàn có thể làm đứt gãy nguồn thu nhập vốn đã không bền vững của họ, đẩy họ vào hoàn cảnh khó khăn khó thoát.


2. Thực trạng chất lượng cuộc sống của mọi người

Vẫn có rất nhiều người trên thế giới đang không được hưởng một cuộc sống đàng hoàng, xứng đáng. Họ có thể đang thiếu thốn một hoặc nhiều yếu tố thiết yếu cho một cuộc sống đàng hoàng như đã liệt kê ở trên. Sau đây là một số con số biết nói về tình trạng nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống không được đáp ứng[1]:

  • Thực phẩm: trên thế giới, cứ 3 người thì có 1 người bị ảnh hưởng bởi tình trạng suy dinh dưỡng hoặc mất an ninh lương thực kéo dài. Việc thiếu khả năng tiếp cận này có nhiều nguyên nhân, từ xung đột đến thiếu cơ sở hạ tầng, và tỷ lệ người bị ảnh hưởng sẽ chỉ tăng lên khi biến đổi khí hậu làm giảm diện tích đất canh tác và đa dạng sinh học
  • Nước sạch và điều kiện vệ sinh: thiếu nước sạch và điều kiện vệ sinh kém là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới. Hơn 40% dân số toàn cầu bị ảnh hưởng bởi tình trạng khan hiếm nước và 26% không được tiếp cận với các dịch vụ vệ sinh cơ bản. Ở những nơi thiếu công trình vệ sinh, chất thải có thể xâm nhập vào nguồn nước và lây lan bệnh tật trong nông nghiệp. (đọc thêm về tình trạng thiếu nước sạch ở ĐÂY)
  • Chăm sóc sức khỏe: có 400 triệu người trên toàn cầu hoàn toàn không được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, và hơn 1,6 tỷ người khả năng ấy rất mong manh và thường không đủ để đáp ứng nhu cầu. Chăm sóc sức khỏe không chỉ là chữa trị mà còn là phòng bệnh: năm 2016, 1,5 tỷ người vẫn mắc các bệnh nhiệt đới có thể phòng ngừa được nếu chăm sóc sức khỏe đầy đủ. (đọc thêm về tình trạng thiếu tiếp cận với dịch vụ y tế ở ĐÂY)
  • Nhà ở: năm 2018, 883 triệu người phải sống ở các khu ổ chuột, hoặc các khu đông dân cư không đảm bảo điều kiện vệ sinh. Khi phải sống trong những nơi ở kém chất lượng, con người ở đây thường dễ lây lan dịch bệnh và dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai.
  • Giáo dục: 265 triệu trẻ em không được đến trường, và khoảng 60% trẻ em không đạt được các tiêu chuẩn cơ bản về đọc hiểu và toán. Phụ nữ và trẻ em gái bị ảnh hưởng nặng nề do thiếu cơ hội giáo dục: ⅔ dân số mù chữ trên thế giới là phụ nữ. (đọc thêm về tình trạng thiếu cơ hội tiếp cận giáo dục ở ĐÂY)
  • Thu nhập: hơn 700 triệu người - hoặc 10% dân số toàn thế giới - vẫn đang phải tồn tại với ít hơn $1.90 mỗi ngày (tương đương khoảng 50.000 VNĐ). Với mức thu nhập thấp như vậy, rất khó để họ có thể đáp ứng những nhu cầu tối thiểu, chưa nói tới việc đề dành cho tương lai hoặc đối phó với các tình huống bất khả thi (như mất việc làm, thiên tai, ốm đau, v.v.). Gần như quốc gia nào cũng quy định mức lương tối thiểu được luật pháp bảo hộ, tuy nhiên rất nhiều nước mức lương tối thiểu đó vẫn không đủ sống.
  • v.v.


Không chỉ các nước đang phát triển mới gặp những vấn đề kể trên - ở các nước phát triển, thậm chí nổi tiếng về độ giàu có vẫn tồn tại những nhóm người đang chật vật với cuộc sống thiếu chất lượng. Một số ví dụ có thể kể đến như:

  • Khủng hoảng nước sạch ở Mỹ[2]
  • Nguy cơ nghèo đói tại Đức[3]
  • Đói nghèo ở trẻ em tại Nhật Bản[4]
  • Lương tối thiểu không đủ sống ở Mỹ[5]
  • Khủng hoảng vô gia cư ở Châu Âu[6]
  • v.v.


3. Có phải người có chất lượng cuộc sống thấp là vì họ xứng đáng với điều đó?  Không thể phủ nhận các quyết định cá nhân, như lựa chọn, nỗ lực, hành động đóng vai trò tương đối lớn trong việc hình thành chất lượng cuộc sống của một người. Chẳng vậy mà chúng ta thường xuyên tán dương những tấm gương vượt khó vươn lên trong cuộc sống, hay một tỷ phú, một chủ doanh nghiệp nào đó đi lên từ bàn tay trắng, trải qua bao khó khăn, thất bại nhưng cuối cùng vẫn gây dựng được cơ ngơi đồ sộ. Đã có hẳn một khái niệm gọi là tư duy “nhân tài làm chủ xã hội” hay chế độ nhân tài (meritocracy) được phát triển và thu hút số lượng rất đông đảo người ủng hộ.

Chế độ nhân tài nhấn mạnh đến việc trao cơ hội, phần thưởng và vị trí dựa trên khả năng và thành tích của một cá nhân. Trong một xã hội áp dụng chế độ trọng dụng nhân tài, các cá nhân được đánh giá và “thưởng” dựa trên thành tích của họ, thay vì các yếu tố như địa vị xã hội, gia thế, các mối quan hệ xã hội, hay sự giàu có. Người ủng hộ tư tưởng này cho rằng điều này thúc đẩy sự công bằng, vì hứa hẹn rằng bất kỳ ai, bất kể nền tảng xuất thân của họ, đều có thể đạt được thành công nhờ nỗ lực và khả năng của chính mình; những cá nhân có trình độ và tài năng nhất sẽ vươn lên vị trí nắm giữ quyền lực và có tầm ảnh hưởng trong xã hội. Chế độ nhân tài vì thế mà khuyến khích mọi người làm việc chăm chỉ, phát triển kỹ năng, kiến thức, và tài năng của họ, dẫn đến tăng năng suất và đổi mới sáng tạo trong xã hội.


Nghe có vẻ rất lý tưởng, nhưng thực chất chế độ nhân tài vẫn có những hạn chế và sai sót riêng của nó. Hãy thử cân nhắc một ví dụ giả định dưới đây:

Bạn nghèo, và bạn được cha mẹ để lại cho một cái cần câu và giao lại một hồ cá để có thể câu cá kiếm ăn. Trong hồ có cá, nhưng nước trong hồ rất bẩn, cá thường xuyên chết, do đó được rất ít và phải mất nhiều thời gian mới có cá cắn câu. Cần câu của bạn cũ, hay hỏng và thường để tuột mất cá. Không những thế, một công ty gần đó liên tục xả thải vào hồ, làm hồ ngày càng bẩn hơn, cá chết ngày một nhiều hơn.

Rõ ràng là vẫn có cá, và về lý thuyết bạn vẫn có thể câu được cá nếu tiếp tục cố gắng. Bạn tiếp tục hàng ngày ra hồ nước bẩn đó khi tình trạng nước ngày càng tồi tệ đi, cố gắng bắt cá về cho gia đình, nhưng mỗi ngày lượng cá bắt được lại ít hơn ngày hôm trước một chút. Bạn nhìn sang hồ câu bên cạnh - một hồ câu rất sạch, cá có thể sống và sinh sản liên tục để bù đắp lại cho lượng cá bị câu. Người câu bên đó cũng câu được số lượng cá lớn và ổn định hàng ngày. Nếu ai đó chỉ nhìn vào lượng cá câu được của bạn và hàng xóm, sau đó kết luận bạn không câu được nhiều cá như người kia là vì bạn không câu cá giỏi bằng người kia, bạn không có “tư duy làm giàu”, bạn không cố gắng đủ, thì liệu điều đó có công bằng không?

Trong trường hợp bạn là một người vô cùng thông minh, nhanh nhạy, bạn quyết định tự đi giải quyết các vấn đề về hồ cá của mình. Bạn đi báo cáo với chính quyền địa phương về công ty xả thải kia, đấu tranh để đòi lại hồ cá trong sạch cho mình. Bạn đồng thời tìm kiếm cách để thanh lọc lại nước hồ, thậm chí dành buổi tối di chuyển sang những hồ khác để câu thêm cá. Trong thời gian bạn đi làm tất cả những việc đó, hàng xóm của bạn không bỏ lỡ một ngày câu nào, ngày nào cũng câu được rất nhiều cá, dần tích lũy được một khoản tiền không nhỏ, thậm chí thuê thêm người về để câu cá cho anh ta, còn anh ta đi học thêm các lớp về cách nuôi cá hiệu quả và cải thiện kỹ thuật câu cá. Vì có năng suất cao, lại được đi học và có bằng cấp, anh ta được giao chức Chủ tịch Hội câu cá của địa phương.

Dù bạn có tiếp tục cố gắng với hồ cá của mình, khoảng cách giữa bạn và người hàng xóm vẫn ngày càng bị nới rộng, và sẽ rất khó để bạn đuổi kịp người hàng xóm về “độ thành công” của người đó.


Trên đây là một ví dụ được đơn giản hóa để chứng minh việc kết quả cuộc sống của một người không bao giờ phụ thuộc hoàn toàn vào nỗ lực, hay sự chăm chỉ của người đó. Đây cũng là một trong những lý do vì sao chế độ nhân tài không hoàn hảo. Chế độ nhân tài làm cho mọi người tin rằng thành công hay thất bại là do cá nhân tự quyết định, chứ không phải do sự bất công đang tồn tại trong xã hội, từ đó có những quan điểm, cách nhìn nhận tiêu cực về người nghèo hay những người có chất lượng sống không cao (“họ bị như vậy vì họ xứng đáng bị như vậy”).

Thêm một ví dụ nữa để củng cố luận điểm này: Có hai học sinh giả định vừa trải qua kỳ thi tốt nghiệp THPT: Học sinh A, đạt 21 điểm, là một học sinh thành phố, nhiệm vụ chính là đi học, được đi học thêm, học gia sư thường xuyên để ôn luyện cho kỳ thi này từ đầu năm lớp 11; học sinh B, đạt 18 điểm, là một học sinh ở miền núi, chỉ được học chính khóa trên lớp, phải vừa đi học, vừa trông em và làm việc kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Nhìn vào hai học sinh này, ai có thể khẳng định được em nào thông minh hơn/ học giỏi hơn? Em nào đã cố gắng nhiều hơn? Hay, em nào xứng đáng được vào đại học hơn? Nếu nhìn nhận vấn đề theo chế độ nhân tài, vì học sinh A có điểm cao hơn, nên dĩ nhiên em xứng đáng vào được đại học hơn, bởi chế độ này hoàn toàn không quan tâm về xuất thân, hay hoàn cảnh của một người, mà chỉ đơn thuần dựa vào “khả năng” (được đo đạc bằng điểm số trong trường hợp này). Điều này có thực sự công bằng hay không?


Trên thực tế, chất lượng cuộc sống của một người có thể bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của nhiều yếu tố khác như:

  • Hoàn cảnh gia đình, xã hội: tình trạng kinh tế xã hội, sự hỗ trợ của gia đình, khả năng tiếp cận giáo dục và các cơ hội có thể ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của một người. Những yếu tố này có thể tạo ra lợi thế hoặc bất lợi ảnh hưởng đến cuộc sống của một cá nhân.
  • Bất bình đẳng mang tính hệ thống: cấu trúc xã hội, thành kiến mang tính hệ thống và bất bình đẳng có thể hạn chế cơ hội và tạo ra rào cản đối với một số cá nhân hoặc nhóm nhất định. Các yếu tố như nghèo đói, phân biệt đối xử và khả năng tiếp cận không bình đẳng với các nguồn lực có thể tác động đáng kể đến chất lượng sống, bất luận họ có nỗ lực như thế nào hay lựa chọn đúng đắn ra sao.
  • May mắn và cơ hội: Những sự kiện ngẫu nhiên và may mắn có thể tác động đáng kể đến cuộc sống của con người. Sinh ra trong một gia đình sung túc, gặp được các cơ hội may mắn, hoặc trải qua những tai nạn, thất bại không lường trước được, v.v. đều có thể khiến cuộc sống của một người tốt lên hoặc tệ đi rất nhiều.


Tóm lại, chúng ta cần hiểu rằng chất lượng cuộc sống của một người có thể phụ thuộc vào nhất nhiều yếu tố bên ngoài mà hoàn toàn vượt tầm kiểm soát của họ, do đó sẽ là rất vô lý nếu xã hội mong đợi người nghèo, người yếu thế phải tự vươn lên, và nếu không vươn lên được thì đồng nghĩa với việc họ thất bại hay yếu kém. Cái chúng ta cần phải hướng đến là một xã hội mang lại cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, chấp nhận rằng con người nên được sống một cuộc sống đàng hoàng, có chất lượng, bất kể việc liệu họ có cống hiến được gì cho xã hội hay không.

(đọc thêm về chế độ nhân tài trong bài viết NÀY của Vietcetera, hoặc nghe bài diễn thuyết NÀY của nhà tâm lý học Barry Schwartz về cơ hội và may mắn thực chất quan trọng trong cuộc sống như thế nào)


4. Nguyên nhân và giải pháp

Chất lượng cuộc sống được cấu thành bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, và mỗi yếu tố lại có những nguyên nhân riêng, do đó đòi hỏi giải pháp riêng.

Ví dụ, vấn đề thiếu tiếp cận với chăm sóc sức khỏe có thể gây ra bởi các nguyên nhân như thu nhập (có nhiều tiền thì sẽ dễ “mua” được những dịch vụ khám chữa bệnh cần thiết), vị trí địa lý (cơ sở y tế quá xa xôi), hay chính sách của khu vực (có bảo hiểm y tế hỗ trợ các khoản khám chữa, thuốc men hay không), do đó một số giải pháp cho vấn đề này có thể là áp dụng bảo hiểm y tế toàn dân (đặc biệt là hỗ trợ cho người nghèo và nhóm người yếu thế); xây dựng thêm các trạm xá, bệnh viện ở các tỉnh thành nhỏ; nâng mức lương tối thiểu lên mức đủ sống; v.v.

Hoặc như đối với vấn đề thiếu nước sạch, nguyên nhân có thể đến từ các tác nhân tự nhiên (như các vùng có nguồn nước ngọt hạn chế, hay tác động của biến đổi khí hậu khiến hạn hán, thiên tai xảy ra thường xuyên), hoặc đến từ các tác nhân con người (thiếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng, gây ô nhiễm nguồn nước do các hoạt động công, nông nghiệp). Từ những nguyên nhân này, một số giải pháp đã được áp dụng, như trồng cây gây rừng, giảm lượng khí thải nhà kính, phát triển công nghệ để xử lý nước thải/ nước lợ, hay thực hiện những bộ luật, chế tài xử lý các hành động gây hại đến nguồn nước nói riêng và môi trường nói chung.  

(đọc thêm về nguyên nhân, giải pháp và những hành động mà mỗi cá nhân có thể làm để cải thiện các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống tại đây: nước sạch, chăm sóc sức khỏe, nghèo đói, bất bình đẳng xã hội, tiếp cận giáo dục)


Tuy nhiên, để hướng đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống cho con người, tất cả những yếu tố này cần phải nhận được sự quan tâm thích đáng và có những nỗ lực rõ rệt, đúng chủ đích, đòi hỏi sự tham gia của toàn xã hội, từ cá nhân, tổ chức, đến chính phủ. Đặc biệt, khi giải quyết một vấn đề, luôn luôn phải cân nhắc và cân bằng những tác động tiêu cực mà giải pháp đó có thể gây ra, dù là vô ý hay đã lường trước được. Ví dụ, các dự án cơ sở hạ tầng như đập, đường cao tốc, hay khu công nghiệp thường được thực hiện với mục đích kích thích tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, những dự án này có thể gây ra những hậu quả môi trường ngoài ý muốn, chẳng hạn như phá rừng, phá hủy môi trường sống và ô nhiễm. Những tác động này có thể gây hại cho cộng đồng địa phương, những người phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên để kiếm sống và có thể dẫn đến thiệt hại sinh thái lâu dài. Tóm lại, điều quan trọng là phải thực hiện những giải pháp toàn diện và có nghiên cứu kỹ càng về ngữ cảnh cụ thể, thu hút cộng đồng địa phương tham gia vào quá trình ra quyết định và tiến hành đánh giá tác động kỹ lưỡng để giảm thiểu tác hại ngoài ý muốn và tối đa hóa kết quả tích cực.


Nguồn tham khảo

Lưu ý về việc giảng dạy trong Chương 1

Chương 1 là giai đoạn mà HS được tiếp xúc với nhiều kiến thức mới nhất trong toàn bộ quá trình học tập của GCED. Do đó, công việc của thầy cô khi giảng dạy Chương này sẽ khá tương tự so với việc giảng dạy phần lớn những môn học khác.

Tuy nhiên, tương tự không có nghĩa là thầy cô có thể dạy tốt Chương 1 nếu như không chuẩn bị kỹ lưỡng, và có định hướng rõ ràng cho việc nên làm gì cho lớp học. Để giúp thầy cô trả lời câu hỏi "Dạy Chương 1 như thế nào cho hiệu quả?", PCT GCED sẽ chia câu hỏi này ra thành những câu hỏi nhỏ hơn (mà thầy cô nên tự trả lời khi dạy bất cứ Bài nào), cũng như gợi ý từ PCT để trả lời những câu hỏi này:

STT Câu hỏi mà thầy cô nên tự trả lời Gợi ý từ PCT
1 Tôi cần làm gì trong một Bài/tiết bất kỳ? Hiển nhiên là thầy cô nên hướng tới việc thiết kế những hoạt động giúp HS đạt được những mục tiêu bài học (MTB) của Bài mà thầy cô đang dạy. Tới tiết cuối cùng của 1 bài bất kỳ, thầy cô nên giúp HS đạt được tất cả MTB của bài đó.

Có lẽ khi đặt câu hỏi này, thầy cô đang cảm thấy hoang mang và đang rơi vào một trong 3 trường hợp phổ biến sau:

  • Không hiểu yêu cầu của bài
  • Hiểu yêu cầu của bài, nhưng không hình dung ra cách triển khai hoạt động để đạt yêu cầu của bài (chính là MTB)
  • Hiểu yêu cầu của bài, và đã hình dung ra cách triển khai hoạt động để đạt yêu cầu của bài, tuy nhiên không chắc chắn về một yếu tố nào đó

Với cả 3 trường hợp, vui lòng trao đổi với (1) đồng nghiệp trong tổ/khối của mình, và (2) PCT GCED để được giải đáp những thắc mắc này.

2 Trước khi dạy, tôi nên nhắc lại kiến thức/thông tin cũ cho HS như thế nào? Các bài trong Chương 1 (hay các bài của GCED nói chung) thường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau - bài sau sẽ sử dụng kết quả thảo luận từ bài trước để tiếp tục phát triển kiến thức cho HS. Ngoài ra, trong 1 bài (từ 2 tiết trở lên) thường sẽ tồn tại một mạch nội dung nào đó kéo dài xuyên suốt từ tiết đầu tiên cho tới tiết cuối cùng.

Bởi vậy, việc nhắc lại kiến thức đã học ở những bài trước/tiết trước là việc nên làm. Thầy cô nên chọn những khái niệm/thông tin trọng tâm, kéo dài xuyên suốt nhiều bài/tiết, hoặc những khái niệm/thông tin mà thầy cô biết HS của mình thường hiểu nhầm/hiểu chưa đúng, và làm rõ ngay cho HS ở đầu tiết học.

Thầy cô có thể tham khảo hoạt động "Do now" mà PTLC Grand Park đang làm. Ở đầu tiết học, GV sẽ chiếu sẵn 1 câu hỏi/1 yêu cầu cụ thể để HS tự làm trong lúc GV điểm danh, hoặc làm những công việc khác trong thời gian đầu giờ. Thời gian dành cho hoạt động này thường chỉ kéo dài khoảng 2-3 phút, và thường nhằm mục đích nhắc lại kiến thức ở những bài/tiết trước

Lưu ý:

  • Không nên hỏi những câu hỏi quá khó, hoặc hỏi những câu yêu cầu mở rộng kiến thức nhiều từ những bài/tiết trước
  • Không nên hỏi quá nhiều câu hỏi, hay hỏi quá chung chung. Chỉ nên hỏi 1 câu hỏi (hoặc đưa ra 1 yêu cầu nào đó), và câu hỏi/yêu cầu này phải đủ cụ thể, rõ ràng (để HS không mất thời gian đoán ý của thầy cô).
3 Tôi nên giới thiệu kiến thức/thông tin cho HS, hoặc đưa ra yêu cầu cho HS như thế nào? Để biết một bài bất kỳ có kiến thức/thông tin mới hay không, thầy cô nên nhìn vào danh sách MTB và kiểm tra xem có MTB nào bắt đầu bằng động từ "hiểu" hoặc "nhận biết" hay không. Nếu có, tức là bài này kỳ vọng thầy cô sẽ là người giới thiệu cho HS những kiến thức/thông tin mới đó.

Nếu thầy cô muốn để HS tự tìm hiểu những kiến thức/thông tin mới này (bằng việc tự tìm hiểu trước ở nhà, hoặc tìm hiểu trực tiếp ở trên lớp), như vậy là đang vượt quá yêu cầu của những MTB "hiểu" hay "nhận biết". Làm vậy không sai, có điều thầy cô cần lưu ý như sau:

  • Nên bảo đảm HS có đủ năng lực để tự tìm kiếm thông tin ở nhà/trên lớp
  • Nên bảo đảm những thông tin mà thầy cô giao cho HS tìm kiếm có tồn tại (tức có nghĩa nếu giao BTVN về việc tìm thông tin A trên mạng, thầy cô cần bảo đảm trên mạng có bài viết đề cập tới thông tin A)
  • Nên bảo đảm HS đã được hướng dẫn về việc tìm kiếm ở đâu, tìm kiếm thông tin cụ thể gì, v.v.
  • Nên bảo đảm HS đã tìm kiếm được thông tin đủ chi tiết, cụ thể để có thể trao đổi, thảo luận trong lớp. Nếu như thầy cô thấy rằng sẽ có nhiều HS không tìm được thông tin, hoặc chỉ tìm được những thông tin rất chung chung, thầy cô nên chuẩn bị sẫn phương án dự phòng (và trong phần lớn trường hợp, hầy cô sẽ phải là người giới thiệu kiến thức/thông tin cho những HS này)

    VD: Thầy cô yêu cầu HS tìm hiểu "các giải pháp đã được triển khai trên thế giới để chống biến đổi khí hậu" ở nhà, và đầu tiết học thầy cô thấy rằng có nhiều HS chưa làm BTVN này. Trong trường hợp này, thầy cô nên cung cấp sẵn một số giải pháp mà thầy cô đã tự tìm hiểu được trước đó cho những HS chưa làm BTVN này (để các em có kiến thức/thông tin cho việc thảo luận trên lớp)

Trong trường hợp thầy cô phải tự giới thiệu một số kiến thức/thông tin nào đó cho HS, hoặc đưa ra yêu cầu cho HS thực hiện, thầy cô nên lưu ý như sau:

  • Nếu thầy cô phải giới thiệu một khái niệm nào đó mới với HS (nhất là những HS nhỏ), PCT khuyên rằng trong phần lớn trường hợp, thầy cô không nên bắt đầu bằng chính khái niêm đó. Thay vào đó, thầy cô nên đi vào các ví dụ cụ thể (càng gần gũi với HS càng tốt), đặt câu hỏi để dẫn dắt cho HS, và sau đó khái quát hóa thành khái niệm sau.

VD1: Nếu phải giới thiệu khái niệm "nhu cầu thiết yếu" cho HS K2, thay vì giới thiệu 1 đoạn định nghĩa dài dòng (mà có thể HS sẽ không hiểu ngay), thầy cô có thể:

  • Hỏi HS về những việc HS đang làm hàng ngày (VD: Hàng ngày con thường làm những việc gì?). HS sẽ trả lời một số công việc chung chung mà ai cũng làm như đánh răng, rửa mặt, ăn các bữa, đi học, chơi games, v.v.
  • Hỏi HS về những việc mà HS cho rằng quan trọng, bắt buộc phải làm (VD: Trong số những việc này, con có thể bỏ việc nào được không? Có việc nào con bắt buộc phải làm để sống, để tồn tại không?). HS sẽ chọn ra một số việc mà HS cho rằng cần thiết, quan trọng hơn cả, chẳng hạn như ăn, đi học, v.v.
  • Sau đó, thầy cô mới chốt lại cho HS rằng những việc mà HS vừa nêu có tên gọi chung là "nhu cầu thiết yếu" vì lý do A, B, C, v.v.
  • Thầy cô có thể yêu cầu HS nêu thêm một số "nhu cầu thiết yếu khác" của chính bản thân HS (hoặc mọi người) sau khi HS đã hiểu nhu cầu thiết yếu là gì, và một số nhu cầu thiết yếu mà ai cũng có trong cuộc sống là như thế nào.

VD2: Nếu muốn yêu cầu HS K5 tự liệt kê một số vấn đề về quy tắc xã hội mà HS quan sát được trong cuộc sống hàng ngày, tuy nhiên thầy cho cho rằng không phải HS nào cũng có trải nghiệm thực tế để tự nêu (chưa nói tới việc HS có nêu đúng yêu cầu hay không), thầy cô có thể lấy ví dụ một vấn đề cụ thể về quy tắc xã hội trong cuộc sống hàng ngày để giúp HS dễ hình dung mình cần nói về điều gì. Ví dụ này có thể rất gần gũi với HS (chẳng hạn, nhiều bạn trong lớp 5A4 hay mất trật tự trong giờ, không tuân theo nội quy lớp học), hoặc có thể ở những nơi khác mà HS chưa biết tới (chẳng hạn, nhiều trẻ em ở huyện X bị bệnh do công ty Y xả nước thải độc hại ra sông hồ, không tuân thủ quy định của nhà nước về việc xử lý chất thải). Việc lấy ví dụ như vậy có thể chiếm phần lớn thời gian hoạt động, thay vì mất thời gian cho HS ngồi thảo luận với nhau, hoặc ngồi tự nghĩ nhưng không ra được thông tin gì.

  • Từ ngữ mà thầy cô sử dụng khi nói, viết, hoặc trình chiếu cho HS xem nên cụ thể, chi tiết, và chính xác, thể hiện rõ ý đồ của thầy cô. Ngược lại, nếu có thể ngắn gọn, súc tích trong việc đưa ra yêu cầu/hướng dẫn cho HS, thầy cô nên làm như vậy. Việc sử dụng từ ngữ hiệu quả sẽ bảo đảm HS sẽ trả lời được đúng những gì thầy cô kỳ vọng, hạn chế việc HS phải đoán ý, hoặc không hiểu thầy cô đang yêu cầu điều gì, và thầy cô phải mất nhiều thời gian để giải thích cho những gì mình vừa nói/viết/trình chiếu.

VD1: GV K3 đặt câu hỏi cho HS: “Những đất nước còn nghèo khó/đang phát triển có thể gặp khó khăn gì trong việc sử dụng nước sạch?”


Bình luận: Đây là một câu hỏi mà (1) dài dòng hơn mức cần thiết, và (2) hỏi những ý không rõ ràng, cụ thể ở đoạn "Có thể gặp khó khăn gì trong việc sử dụng nước sạch". Cụ thể là:

  • Mục đích của việc hỏi câu hỏi này là để xem xem HS có biết đất nước nghèo nào mầ thiếu nước sạch không, và nếu có thì họ thiếu như thế nào. Do đó, nên đề cập trực tiếp tới việc "thiếu nước sạch" thay vì nói vòng vo là "gặp khó khăn trong việc sử dụng nước sạch"
  • Về mặt câu chữ, "gặp khó khăn trong việc sử dụng nước sạch" có thể bao gồm cả việc "không mở được chai nước". Mặc dù ý này nghe rất ngớ ngẩn, tuy nhiên về mặt logic thì không có gì sai - rõ ràng là không mở được chai nước thì chắc chắn sẽ gặp khó khăn khi sử dụng nước sạch. Có thể phần lớn HS sẽ không nói ra ý này, tuy nhiên thầy cô nên tránh đặt những câu hỏi mà bao trùm cả những ý như vậy.

GV có thể chỉ đơn thuần hỏi là "Những nước nghèo, hoặc đang phát triển có thiếu nước sạch không? Thiếu như thế nào?"

VD2: GV K6 đặt câu hỏi cho HS "Các con nghĩ sao về những định kiến của xã hội đối với người nghèo?"


Bình luận: Dù câu hỏi này không quá dài dòng, tuy nhiên câu hỏi này có thể được hiểu, và được trả lời theo rất nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn như:

  • Có thể GV muốn hỏi HS về những định kiến từ xã hội mà đang ảnh hưởng tới người nghèo. Trong trường hợp này, câu hỏi nên là "Người nghèo đang chịu những định kiến gì từ xã hội?"
  • Có thể GV muốn hỏi HS về những điểm bất hợp lý của những định kiến này. Trong trường hợp này, câu hỏi nên là "Những định kiến của xã hội với người nghèo có điểm gì vô lý không?"
  • Có thể GV muốn hỏi HS về ảnh hưởng của những định kiến này tới cuộc sống của người nghèo. Trong trường hợp này, câu hỏi nên là "Cuộc sống của người nghèo bị ảnh hưởng như thế nào từ những định kiến của xã hội?"
  • Hoặc, cũng có thể GV muốn hỏi xem HS có định kiến nào về người nghèo (mà có thể bản thân HS chưa nhận ra) hay không. Trong trường hợp này, câu hỏi nên là "Sau khi đã học về những định kiến của xã hội đối với người nghèo, em có thấy mình cũng có suy nghĩ như vậy không?"

Nói tóm lại, nếu như một câu hỏi có thể được hiểu theo nhiều cách như vậy, đây không phải là một câu hỏi tốt. Và nếu như thầy cô phải mất quá nhiều thời gian để giải thích ý của chính mình, có lẽ thầy cô nên đặt câu hỏi cụ thể, rõ ràng hơn cho HS ngay từ đầu.

4 Khi dạy, tôi nên giảng nhiều hay ít? Có nên tổ chức những hoạt động mang tính tương tác cao (để HS làm việc nhóm, thảo luận nhóm, v.v.) thay cho việc giảng không? Không có công thức lý tưởng cho việc này. Việc thầy cô giảng nhiều chưa chắc đã là sai, nếu như thầy cô giúp HS tiếp cận được với những kiến thức/thông tin mới một cách hiệu quả, dễ hiểu, và HS cho thấy sự hứng thú với những kiến thức/thông tin này. Ngược lại, việc tổ chức những hoạt động mang tính tương tác cao chưa chắc đã là hiệu quả nếu như tổ chức không hợp lý về mặt thời gian & yêu cầu, khiến cho HS không đạt được MTB một cách hiệu quả.

Nói tóm lại, tùy vào mục đích giảng dạy của thầy cô, MTB cụ thể của bài, và năng lực/khả năng tập trung của HS trong lớp mà thầy cô sẽ quyết định là giảng ít hay nhiều, và tổ chức hoạt động trong lớp ra sao. Dưới đây là một số khuyến nghị của PCT đối với các hình thức tổ chức hoạt động khác nhau trong lớp:

Những trường hợp mà thầy cô nên giảng nhiêu hơn Những trường hợp mà thầy cô nên tổ chức hoạt động để HS trao đổi, tương tác với nhau
  • Khi thầy cô cho rằng có một kiến thức/thông tin, hoặc một mạch nội dung quan trọng nào đó mà thầy cô phải trực tiếp kể, trực tiếp dẫn dắt cho HS
  • Khi thầy cô cho rằng việc giảng/dẫn dắt của thầy cô sẽ tiết kiệm thời gian hơn cho cả lớp, tuy nhiên vẫn giúp HS đạt được MTB. Đồng nghĩa với việc thời gian tiết kiệm được có thể dành cho những hoạt động khác.
  • Khi thầy cô cho rằng HS chưa chuẩn bị đủ kỹ (VD: chưa làm BTVN/làm thiếu) để có thể thảo luận/tương tác một cách hiệu quả
  • Khi thầy cô cho rằng HS đủ kiến thức/sự tự giác để thảo luận, tương tác với nhau
  • Khi thầy cô cho rằng HS đã có đủ hướng dẫn để biết chính xác mình cần làm gì (VD: nên đặt câu hỏi gì cho nhóm vừa trình bày thì phù hợp)
  • Khi thầy cô cho rằng kết quả thảo luận của HS có thể là ngữ liệu tốt để thầy cô sử dụng trong tiết học này (hoặc các tiết học sau)
5 Tôi nên sử dụng tài liệu/ngữ liệu gì, như thế nào trong một bài/tiết bất kỳ? Nói chung, không có giới hạn về những tài liệu/ngữ liệu mà thầy cô có thể sử dụng, miễn sao liên quan tới MTB, và dễ hiểu đối với HS. Tuy nhiên, thầy cô nên lưu ý như sau:
  • Không phải tài liệu/ngữ liệu nào cũng liên quan 100% tới những nội dung trong bài, và đủ ngắn gọn, súc tích để HS có thể đọc/xem một cách hiệu quả. Nếu thầy cô sử dụng những bài báo/video mà chỉ có một đoạn ngắn có liên quan tới nội dung bài, thầy cô nên cắt bỏ những phần không liên quan còn lại.
  • Không phải tài liệu/ngữ liệu nào cũng giải thích đủ chi tiết, cụ thể những khái niệm/thông tin quan trọng, nhất là khi đối tượng người nghe là HS (những người chưa có nhiều hiểu biết trước đó). Trong trường hợp này, thầy cô nên tự mình giải thích những khái niệm/thông tin đó cho HS trước khi các em đọc/xem tài liệu/ngữ liệu của thầy cô.

VD: Video A nói về việc quy tắc xã hội "quyền bẩu cử của phụ nữ" đã được thay đổi như thế nào ở Mỹ. Khái niệm "quyền bầu cử" sẽ được lặp đi lặp lại trong video A, tuy nhiên video này chưa hề làm rõ "quyền bầu cử" có nghĩa là bầu ai, bầu cho vị trí nào, vào lúc nào, v.v. GV nên là người giải thích cho HS những thông tin này trước khi chiếu video A.

  • Không phải tài liệu nào cũng dễ đọc với HS (nhất là HS Tiểu học). Trong trường hợp tài liệu/ngữ liệu của thầy cô liên quan tới MTB, tuy nhiên rất khó đọc, chứa rất nhiều khái niệm xa lạ (mà thầy cô sẽ phải mất nhiều thời gian để giải thích), có lẽ đây không phải một tài liệu/ngữ liệu tốt. Trong trường hợp này, thầy cô nên chọn tài liệu/ngữ liệu khác.
6 Tôi nên nói kỹ tới mức nào khi đề cập tới một kiến thức/thông tin nào đó? Hoặc, nên hỏi HS kỹ tới mức nào khi HS nói về một kiến thức/thông tin nào đó. Khi dạy 1 tiếtt, nếu thầy cô phải chọn giữa 2 việc:
  • nói kỹ về A
  • hoặc, nói lướt qua về A, B, C, v.v.


PCT khuyên rằng trong phần lớn trường hợp thầy cô nên chọn cách 1, tức là nói kỹ về kiến thức/thông tin A nào đó thì tốt hơn. Lý do là vì:

  • CT GCED không yêu cầu phải nói nhiều, nói rộng: CT GCED gần như không bao giờ yêu cầu quá cụ thể về số lượng kiến thức/thông tin mà GV và HS cần thảo luận với nhau. Chẳng hạn, CT chỉ yêu cầu HS "nhận biết các nguyên nhân từ tự nhiên khiến động & thực vật bị đe dọa", tuy nhiên không yêu cầu GV và HS phải thảo luân với nhau về bao nhiêu nguyên nhân. Con số này do GV quyết định, và thầy cô hoàn toàn có thể liệt kê 4-5 nguyên nhân, tuy nhiên chỉ chọn đào sâu vào 1-2 nguyên nhân nào đó (thay vì nói chung chung về cả 4-5 nguyên nhân này)
  • GV GCED không phải chuyên gia về những vấn đề toàn cầu: Chắc chắn rằng những kiến thức/thông tin trong CT GCED đều tương đối mới với thầy cô, chưa kể những kiến thức/thông tin này sẽ luôn luôn thay đổi, cập nhật theo thời gian. Vì thầy cô sẽ luôn phải chủ động đọc và tìm hiểu về những kiến thức/thông tin này, PCT khuyên rằng thầy cô đọc kỹ về một số khía cạnh nào đó của Chủ đề trọng tâm/vấn đề toàn cầu để thật sự hiểu thì sẽ tốt hơn là đọc nhiều, nhưng không sâu. Thà thầy cô đọc kỹ về "bất bình đẳng giới", sau đó cùng HS đào kỹ vào thực trạng & nguyên nhân của vấn đề này còn hơn là nói chung chung về các loại bất bình đẳng khác nhau, tuy nhiên không thật sự giúp HS hiểu rõ về bất cứ loại nào.
  • HS thường sẽ không nhớ/không tò mò gì với những gạch đầu dòng chung chung: Việc học GCED thường là trải nghiệm đầu tiên của phần lớn HS với những vấn đê toàn cầu, và nếu các hoạt động trong lớp không giúp HS hiểu kỹ về một kiến thức/thông tin cụ thể nào đó, khả năng cao là HS sẽ quên hết những gì đã học, và sẽ không cảm thấy tò mò về bất cứ nội dung nào của GCED. Điều này dẫn tới việc ở những giai đoạn sau, HS sẽ khó xác định được vấn đề mình muốm tìm hiểu (ở Chương 2), hoặc vấn đề mình muốn giải quyết (ở Chương 3).
  • Vì nếu chỉ bàn về một số gạch đầu dòng chung chung, tiết học sẽ rất chán, và thường không hiệu quả.


Việc hỏi/đáp HS cũng tương tự. Nếu như HS X nói ra một thông tin gì đó chung chung, không đủ cụ thể, thầy cô nên đặt câu hỏi để làm rõ ý của HS. Làm vậy để đảm bảo HS X thật sự hiểu mình đang nói gì, và cũng để giúp những HS khác có cơ hội hiểu rõ hơn những gì X đang nói.

7 Tôi nên liên kết, và chuyển tiếp giữa các hoạt động như thế nào? Thầy cô sẽ thấy rằng trong một bài bất kỳ, các MTB thường liên quan chặt chẽ tới nhau. MTB sau thường phụ thuộc vào kết quả của MTB trước, MTB trước là tiền đề cho một (hoặc nhiều) MTB phía sau. Chẳng hạn, để đạt được MTB "xác định ý tưởng giải quyết vấn đề", trước tiên thầy cô cần giúp HS đạt được MTB "xác định vấn đề muốn giải quyết".

Các hoạt động mà thầy cô triển khai trong một bài cũng tương tự, cụ thể là:

  • Nếu như các hoạt động của thầy cô đang hướng tới việc đạt những MTB có mối liên kết với nhau, nội dung chính của hoạt động thầy cô cũng nên liên quan tới nhau. Có nghĩa là nếu như hoạt động 1 của thầy cô đã đề cập tới vấn đề X, thì hoạt động 2 của thầy cô nên tiếp tục mở rộng nội dung về vấn đề X bằng một cách nào đó.
  • Việc thầy cô chuyển tiếp giữa các hoạt động (bằng lời, hoặc bằng những gì thầy cô trình chiếu) nên tạo ra một trải nghiệm học tập liền mạch, như thể HS đang được nghe thầy cô kể một câu chuyện xuyên suốt từ đầu tới cuối tiết. Một thao tác rất đơn giản nhưng không phải ai cũng làm, đó là dẫn dắt bằng lời sau khi kết thúc 1 hoạt động để kết nối vào hoạt động tiếp theo.
8 Tôi nên chốt kiến thức/thông tin cho HS như thế nào, vào lúc nào? "Chốt kiến thức/thông tin" không chỉ diễn ra ở cuối bài, mà còn có thể diễn ra sau khi mỗi hoạt động kết thúc, sau khi HS đã trao đồi với nhau về một thông tin quan trọng nào đó, hoặc chỉ đơn thuần là thầy cô cảm thấy cần phải làm rõ, và định hướng để HS tư duy theo một cách nào đó. Rất nhiều kiến thức/thông tin cụ thể trong 1 bài của GCED sẽ do thầy cô và HS quyết định (thay vì CT yêu cầu), do đó thầy cô nên chốt kiến thức/thông tin cho HS để đảm bảo (1) tất cả HS trong lớp đều có chung hiểu biết về cùng một vấn đề, và (2) thầy cô có cơ hội phản hồi cho HS nếu những kiến thức/thông tin đang được thảo luận không đúng/không rõ ràng.

Dưới đây là một số thời điểm trong lớp mà thầy cô nên chốt kiến thức:

  • Cuối mỗi bài/tiết: Chắc chắn, đây là dịp để thầy cô nhắc lại một số kiến thức/thông tin quan trọng đã được thảo luận trong bài/tiết này. Ngay cả khi nếu như bài/tiết đó không có kiến thức/thông tin mới nào mà CT yêu cầu thầy cô phải giới thiệu cho HS (chẳng hạn, bài về "Cách triển khai, và đánh giá ý tưởng trong LK4"), thầy cô cũng nên chốt lại một số thông tin mà GV và HS đã bàn với nhau trong lớp học, và thầy cô cho rằng cần phải nhắc lại để HS nhớ (VD: Khi triển khai các dự án tuyên truyền, cần lưu ý rằng phải bảo đảm đối tượng được tuyên truyền chịu lắng nghe mình).
  • Cuối mỗi hoạt động: Nếu như có một số kiến thức/thông tin quan trọng được thảo luận trong hoạt động thứ 1, và HS cần hiểu rõ những kiến thức/thông tin này trong hoạt động thứ 2, thầy cô nên chốt ngay cho HS sau hoạt động 1.
  • Ngay sau khi HS vừa HS đã trao đồi với nhau về một thông tin quan trọng nào đó: "Quan trọng" ở đây có thể là cho chình bài/tiết hiện tại, hoặc cho những bài/tiết sau đó (chẳng hạn, HS muốn bàn về việc giải quyết vấn đề A trong 4 tiết tới, tuy nhiên đây là một vấn đề hoàn toàn không có thật). Trong những trường hợp này, thầy cô nên chốt lại ngay cho HS về việc những kiến thức/thông tin mà HS vừa thảo luận có đúng/hợp lý hay không, và nếu không thì HS nên làm gì
  • Hoặc, bất cứ khi nào thầy cô cảm thấy cần phải làm rõ, và định hướng để HS tư duy theo một cách nào đó:
9 Tôi có nên giao BTVN cho HS không? Trong Chương 1, GCED không yêu cầu GV phải giao BTVN. Việc này chỉ nên diễn ra nếu như:
  • HS có khả năng, và chịu làm vậy.
  • Thầy cô có kế hoạch sử dụng BTVN của HS để đưa vào việc giảng dạy của mình ở những tiết sau (chứ không phải chỉ giao cho HS có việc để làm)
  • Thầy cô đã cung cấp đủ hướng dẫn/dặn dò để HS có thể làm BTVN một cách hiệu quả

Một số câu hỏi/vấn đề thường gặp khi triển khai Chương 1

Dưới đây là một số câu hỏi/vấn đề trong quá trình triển khai Chương 1, và câu trả lời tương ứng của PCT:

STT Câu hỏi Câu trả lời
Những câu hỏi/vấn đề thường gặp chỉ trong Chương 1
1 Sản phẩm cuối Chương 1 của HS là gì? Có thể đánh giá HS như thế nào ở cuối Chương 1? Tới cuối Chương 1, HS sẽ không có một sản phẩm hữu hình nào (như một bài nghiên cứu, hay một dự án hành động). Những gì HS đã học trong Chương 1 về các vấn đề toàn cầu sẽ được đào sâu hơn ở những Chương sau, và sản phẩm ở những Chương đó sẽ dùng để đánh giá (một phần nào đó) những năng lực của Chương 1.

Do đó, ở cuối Chương 1 sẽ không có mốc đánh giá tổng kết nào. Tất nhiên, thầy cô vẫn có thể (và nên) thực hiện việc đánh gia quá trình cho HS, dựa trên việc đánh giá xem HS đã đạt các mục tiêu bài học hay chưa.

2 Một số kiến thức về Chủ đề trọng tâm X khá khó để tự tìm được nguồn trên mạng/các phương tiện khác, liệu PCT có gợi ý nguồn chính thống nào không? Những nguồn tham khảo mà PCT tìm thấy được (liên quan tới Chương 1) đã được tải lên ở:
  • Trang này (hướng dẫn triển khai Chương 1)
  • Trong mục "Tài liệu gơi ý" trong mỗi Bài, tại phần mềm Curriculum Mapping

Ngoài đó ra, nếu thầy cô thấy có nội dung/kiến thức nào cần có tài liệu đọc thêm, tuy nhiên GCED hiện tại chưa có, vui lòng liên hệ trực tiếp với PCT GCED. Nếu có thể tìm được tài liệu phù hợp, PCT GCED sẽ bổ sung vào những kênh thông tin ở trên.

3 Mỗi Lăng kính đang được Chương trình gợi ý triển khai trong vòng 4 tiết. Liệu GV có được thay đổi phân bố các tiết này mà vẫn đảm bảo được các mục tiêu bài học không? Có thể, miễn sao đảm bảo rằng HS có đủ thời gian để đạt các mục tiêu bài (của những bài bị rút ngắn tiết). Tuy nhiên, nếu như không có lý do gì quá đặc biệt, PCT khuyên nên dạy đủ 4 tiết/Lăng kính.
4 Với năng lực của HS khối lớp nhỏ (ở bậc Tiểu học), có cần giới thiệu về khái niệm 5 Lăng kính không? Có cần yêu cầu HS nhớ tên 5 Lăng kính không? Thầy cô không nhất thiết phải giới thiệu khái niệm 5 Lăng kính cho HS, nếu như HS không có khả năng hiểu 5 Lăng kính là gì, và để làm gì. Nói cách khác, thầy cô chỉ nên cân nhắc tới việc giới thiệu 5 Lăng kính này cho HS nếu HS có đủ khả năng nhận thức, và hiểu ý nghĩa của 5 Lăng kính này.

Do đó, PCT khuyên rằng thầy cô không nên nhắc tới khái niệm 5 Lăng kính cho tới bậc Trung học, và cũng không cần đào sâu quá nhiều về ý nghĩa của mỗi Lăng kính nếu như HS chưa có đủ khả năng nhận thức.

5 Trong Chương 1, liệu có cơ hội nào để HS xây dựng giải pháp cho một vấn đề nào đó (thuộc Chủ đề trọng tâm) không? Không. Việc xác định giải pháp sẽ được thực hiện trong Chương 3, khi mà HS đã vào nhóm với nhau, và phải chọn ra một (hoặc nhiều) vấn đề để giải quyết trong Dự án Hành động.

Chương 1 có một sô Bài đề cập tới "giải pháp", tuy nhiên không phải là xây dựng giải pháp của HS. Thay vào đó, HS sẽ:

  • Ở bài cuối cùng của LK2 (tùy từng khối lớp thì Bài này sẽ là 1.5 hoặc 1.6): HS sẽ phân tích những giải pháp khác đã được triển khai trên thế giới, và bàn về việc giải pháp này đã giải quyết được gì/chưa giải quyết được gì. Mục đích là để HS hiểu rằng một giải pháp bất kỳ thường chỉ giải quyét được một số khía cạnh cụ thể nào đó, và giải quyết được khía cạnh A có nghĩa là đang bỏ qua B, C, v.v. như thế nào.

Đọc gợi ý triển khai Bài này của PCT ở mục Gợi ý triển khai các bài trong Chương 1

  • Ở LK4, HS sẽ thảo luân về những bước triển khai một giải pháp giả tưởng nào đó. Tức là HS sẽ không đi triển khai giải pháp A nào đó, mà sẽ bàn về việc để có được giải pháp A thì cần trải qua bước A1, A2, A3, v.v. như thế nào. Mục đích là để HS bàn kỹ hơn về những việc cần làm khi triển khai 1 giải pháp bất kỳ, không phải là để yêu cầu HS phải nghĩ ra một giải pháp nào đó hoàn toàn mới lạ, đột phá
Những câu hỏi/vấn đề thường gặp trong tất cả giai đoạn của môn học
6 GV có thể sử dụng lại nội dung từ những giáo án GCED cũ (mà bản thân GV đã soạn từ những năm trước) để soạn giáo án mới không? Được, nhưng cần cân nhắc:rằng:
  • Có thể CT GCED đã thay đổi một số nội dung nhất định. Những gì thầy cô soạn cho năm ngoái có thể sẽ không phù hợp với Bài của năm hiện tại nữa
  • Có thể những gì thầy cô triển khai năm ngoái chưa chắc đã phù hợp/hiệu quả trong năm nay. Nếu thầy cô không nhớ rõ mình đã gặp vấn đề gì khi triển khai theo giáo án cũ, rất có thể thầy cô sẽ gặp phải những vấn đề mà mình đã gặp ở những năm trước
7 Đối với những Bài kéo dài nhiều tiết, nên soạn giáo án theo Bài (tức, 1 giáo án áp dụng nhiều tiết), hay theo tiết (tức, 1 giáo án cho mỗi tiết)? Tùy vào yêu cầu/quy định ở cơ sở của thầy cô, và tùy vào bản chất của Bài thầy cô tạo giáo án. Dù chọn cách nào đi nữa, thầy cô cũng nên tự trả lời một số câu hỏi sau:
  • Nếu tạo 1 giáo án duy nhất cho 1 Bài nhiều tiết: Liệu giáo án đó có chứa quá nhiều thông tin, khiến cho người đọc khó nắm bắt được những nội dung/hoạt động trong giáo án đó không? Chưa kể, liệu việc xây dựng một giáo án dài, phức tạp như vậy liệu có khó quá không? Hay là, nên chia nhỏ ra thì hơn?
  • Nếu tạo 1 giáo án cho mỗi tiết: Liệu 1 giáo án nhỏ như vậy có bị "tủn mủn" quá không? Nếu như một hoạt động kéo dài nhiều tiết, thì liệu có chia được ra 1 hoạt động đó thành 2 - 3 giáo án khác nhau không?
8 Nên soạn giáo án thế nào với những Bài nhiều tiết, nhưng ít mục tiêu bài? (VD: Bài có 4 tiết, nhưng chỉ có 2 mục tiêu bài) Trong Khung Chương trình GCED, có một số Bài nhiều tiết, tuy nhiên số mục tiêu bài còn ít hơn cả số tiết. Nếu như Bài đó không có gợi ý sẵn 1 mục tiêu bài nên được triển khai trong bao nhiêu tiết, như vậy có nghĩa là thầy cô được toàn quyết quyết định một mục tiêu bài nên được triển khai trong bao lâu. Và, như vậy cũng có nghĩa là một mục tiêu bài có thể được lặp đi lặp lại ở nhiều giáo án khác nhau (nếu như thầy cô soạn giáo án theo tiết)
9 Về việc liên kết với mục tiêu bài: Nên liên kết với bao nhiêu mục tiêu bài trong 1 giáo án thì vừa đủ? Không có công thức nào cố định cho việc này. Một giáo án liên kết với bao nhiêu mục tiêu bài (nói cách khác, có thể đạt được bao nhiêu mục tiêu bài) phụ thuộc vào:
10 Với những HS giỏi, có năng lực tốt hơn thì GV có nên yêu cầu vượt quá mức mà mục tiêu bài yêu cầu không? Có thể, nếu như thầy cô chắc chắn rằng (1) HS có thể làm được nhu vậy, và (2) việc yêu cầu thêm không tốn quá nhiều thời gian của HS, và của chính thầy cô. Và, vượt quá, nhưng vẫn phải liên quan tới mục tiêu bài gốc.

VD: Nếu MTB yêu cầu HS "Liệt kê một số ví dụ về hiện tượng A", GV có thể yêu cầu HS giỏi "mô tả chi tiết một số ví dụ về hiện tượng A". Lưu ý rằng khi soạn giáo án, thầy cô vẫn phải giữ nguyên mục tiêu bài gốc. Yêu cầu nâng cao này nên nằm ở một mục tách biệt, không nên lẫn lộn với phần "mục tiêu bài" dành cho phần lớn HS trong lớp

11 Nhiều mục tiêu bài của GCED thường bắt đầu bằng từ "hiểu". Hệ thống Vinschool hay dùng từ “liệt kê, kể tên, giải thích,…” vậy từ hiểu này trong môn GCED có được tính để sử dụng khi làm giáo án không, hay cần làm rõ như các môn khác? Khi soạn giáo án, thầy cô sẽ phải chọn mục tiêu bài để liên kết. Những mục tiêu bài này không thay đổi được.

Khi viết tiêu chí thành công, thầy cô có thể làm rõ những từ "hiểu" này thành một động từ gì đó khác, miễn sao phù hợp với năng lực của HS. Lưu ý rằng trong GCED, để HS "hiểu" được một khái niệm/hiện tượng gì đó, GV thường sẽ giới thiệu khái niệm/hiện tương đó, sau đó phân tích ví dụ cho HS. Có thể GV sẽ yêu cầu HS phải ghi nhớ, hoặc tự đưa ra ví dụ của bản thân mình.

12 Những thông tin trong Khung Chương trình (chương, bài, tài liệu gợi ý) có thể được cung cấp trực tiếp cho HS không? Rất nhiều thông tin trong Khung Chương trình là dành cho GV đọc để triển khai Chương trình/hiểu về nội dung trong GCED, không phải cho HS. Do đó, không phải thông tin/tài liệu/đường link nào cũng phù hợp để đưa trực tiếp vào bài học, nhất là ở các khối lớp nhỏ.

Bởi vậy, GV nên tự đánh giá xem một thông tin/tài liệu/đường link bất kỳ có phù hợp với đối tượng HS trong lớp mình đang dạy không, trước khi cung cấp trực tiếp những tài liệu/thông tin/đường link này. Cần tránh việc yêu cầu HS ghi chép/nhớ những thông tin với từ ngữ quá hàn lâm/học thuật (mà vốn dành cho người lớn), vì chắc chắn việc đó sẽ không có giá trị gì về chuyên môn.

13 Nên truyền thông MTB/TCTC như thế nào cho HS? Thầy cô cần cân nhắc những yếu tố sau:
  • Giới thiệu như thế nào. Như đã nói ở câu hỏi số 13, không phải nội dung gì cũng phù hợp để GV đưa trực tiếp cho HS. Cần lưu ý rằng MTB của các Bài trong GCED dược viết ra với đối tượng đọc là người lớn, do đó không nên đưa trực tiếp cho HS. Thầy cô vẫn triển khai MTB bình thường, tuy nhiên hoàn toàn có thể nói cho HS một phiên bản đơn giản hơn để HS nắm được mình cần làm gì trong Bài.
  • Giới thiệu vào lúc nào. Không phải lúc nào thầy cô cũng nên đưa MTB cho HS ngay từ đầu vì:
    • Một số MTB sẽ không thể hiểu được nếu như HS chưa có nhiều kiến thức trước đó, và chưa được học Bài hiện tại. Trong trường hợp này, thầy cô nên giới thiệu MTB ở giữa, hoặc cuối Bài thì sẽ hợp lý hơn
    • Một số MTB mà nếu giới thiệu cho HS sẽ dẫn tới việc HS học vẹt (VD: Nếu thầy cô giới thiệu MTB "Hiểu rằng A là B", HS sẽ biết luôn đáp án, và chỉ cần nhắc lại "A là B" là coi như đạt MTB luôn, dù như vậy hoàn toàn không có ý nghĩa gì về chuyên môn). Trong trường hợp này, thầy cô nên thay đổi từ ngữ của MTB cho HS để không làm lộ đáp án đúng ở đây.
14 Trong một Bài, nội dung nào là bắt buộc phải tuân theo? Nội dung nào thì không? Bắt buộc tuân theo: Câu chữ của MTB, tức những yêu cầu tối thiểu cần đạt trong Bài. Đây là yêu cầu bắt buộc duy nhất

Không bắt buộc tuân theo (tức, thầy cô có quyền tự chủ):

  • Thứ tự: Mục tiêu bài của GCED được thiết kế để được dạy theo trình tự từ mục tiêu bài đầu tiên cho tới mục tiêu bài cuối cùng, và PCT khuyên nên giữ nguyên thứ tự như vậy. Tuy nhiên, sẽ có nhiều trường hợp mà thầy cô thấy rằng có thể giúp HS đạt mục tiêu bài theo thứ tự khác (VD: A > C > B > A > D), thầy cô có thể làm vậy, miễn sao đảm bảo tính hợp lý
  • Thời lượng: Thầy cô có thể quyết định một mục tiêu bài nên được triển khai trong thời lượng bao lâu, miễn sao đảm bảo tính hợp lý.
  • Tài liệu/ví dụ cụ thể trong Bài: GCED sẽ cung cấp một số tài liệu, cũng như một số ví dụ để thầy cô tham khảo. Tuy nhiên, thầy cô có thể sử dụng những tài liệu/ví dụ này, hoặc sử dụng những tài liệu/ví dụ mà bản thân mình cảm thấy phù hợp hơn. Số lượng tài liệu/ví dụ (cũng như mức độ chi tiết) cũng sẽ do thầy cô quyết định

VD: Khi bàn về "nguyên nhân dẫn tới vấn đề X", CT có gợi ý sẵn 5 nguyên nhân A B C D E. Tuy nhiên, thầy cô có thể chỉ nói về B C, và dành nhiều thời gian trong lớp để giải thích, minh họa cho HS về việc B và C dẫn tới vấn đề X như thế nào. Hoặc, thầy cô cũng có thể nói về nguyen nhân F nào đó mà CT không lấy làm ví dụ (miễn sao F không phải là thông tin sai)

Đang cập nhật...

Gợi ý triển khai các bài trong Chương 1

Mục này sẽ liệt kê một số gợi ý triển khai của PCT đối với một số bài nhất định (trong PM Mapping). Những gợi ý này sẽ được sắp xếp theo các khối lớp từ K1 tới K12.


Lưu ý: Những gợi ý dưới đây được viết cho đối tượng đọc là thầy cô, không phải HS, do đó sẽ có nhiều từ ngữ/nội dung tương đối phức tạp so với lứa tuổi của HS ở khối lớp tương ứng. Do đó, thầy cô không nên đưa trực tiếp những ví dụ này cho HS, mà nên đơn giản hóa từ ngữ sao cho phù hợp với hiểu biết/khả năng nhận thức của HS

K1: Sự đa dạng

K2: Nước sạch

[GCED2-Lesson1.6] Lăng kính 2 - Tư duy Hệ thống: Giải pháp cho việc thiếu nước sạch
Bài này có 2 MTB:
  • MTB 1.6.a: Hiểu rằng nước sạch vẫn sẽ thiếu, nếu như những nguyên nhân dẫn tới việc thiếu nước sạch chưa biến mất
  • MTB 1.6.b: Nhận biết một số giải pháp mà mọi người đã thực hiện để ngăn chặn việc thiếu nước sạch

Để đạt 2 MTB này, thầy cô có thể (1) nói về việc giải pháp cho các vấn đề liên quan tới nước sạch sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không giải quyết được nguyên nhân A dẫn tới vấn đề, và (2) giới thiệu những giải pháp đã giải quyết được nguyên nhân dẫn tới A, và lợi ích cụ thể của những giải pháp này.

Vậy bình luận về giải pháp như thế nào? Thầy cô có thể:

  • chọn trước một giải pháp X mà mình muốn giới thiệu cho HS, sau đó nói về việc giải pháp này đã giúp giải quyết nguyên nhân A nào (khiến mọi người không có đủ nước sạch), và giải pháp đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.
  • hoặc, chọn một vấn đề mà thầy cô nghĩ HS cần quan tâm, sau đó nói về nguyên nhân A gây ra vấn đề này, và đã có giải pháp X nào hướng tới nguyên nhân A này, đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.


Giống như mọi giải pháp khác, giải pháp X mà thầy cô lấy làm ví dụ chắc chắn sẽ không giải quyết được mọi nguyên nhân. Do đó, thầy cô nên dẫn dắt để HS hiểu rằng giải pháp vừa nêu sẽ không giải quyết được nguyên nhân B, C, v.v. ra sao, và việc thiếu nước sạch vẫn sẽ tiếp diễn như thế nào khi B, C, v.v. vẫn còn tồn tại. Làm vậy không phải để phủ nhận giải pháp X, mà để cho HS hiểu rằng để giải quyết triệt để vấn đề thì mọi người sẽ cần làm nhiều việc hơn là X.


Dưới đây là một số ví dụ về giải pháp để thầy cô tham khảo:

Giải pháp Bình luận về giải pháp này
1. Xây dựng công trình cấp nước sạch ở các vùng nông thôn

Giải pháp này là gì? Làm được gì?

(GV có thể tham khảo bài viết "Tăng cường quản lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn" để bước đầu hiểu được giải pháp "Công trình cấp nước sạch vùng nông thôn" có nghĩa là gì)


Việc thiếu nước sạch khiến cho cuộc sống của người dân trở nên khó khăn, có thể kể tới các vấn đề như thiếu nước uống & nước sinh hoạt, không thể canh tác nông nghiệp, hay phải trả giá cao để mua nước sạch sử dụng hàng ngày. Thiếu nước sạch cũng buộc người dân phải di chuyển tới những khu vực xa nhà để lấy nước về, điều đáng nói là công việc tốn thời gian và công sức này lại thường do phụ nữ trong gia đình đảm nhiệm. Ở nhiều khu vực trong cả nước, chủ yếu là khu vực nông thôn, việc thiếu nước sạch diễn ra khá thường xuyên, đặc biệt là trong mùa khô. Trong những năm qua, nhiều người đã hỗ trợ những cộng đồng ở các khu vực này bằng nhiều cách khác nhau, như vận chuyển nước miễn phí tới từng khu vực để cấp cho người dân. Tuy nhiên cách này lại tương đối mất công và chỉ có thể giúp đỡ người dân chống chọi với việc thiếu nước sạch trong một thời gian ngắn.

Chính vì thế đã có một giải pháp được áp dụng khá phổ biến là "xây dựng các công trình cấp nước sạch công cộng" ở khu vực nông thôn. Giải pháp này tập trung vào việc giải quyết một số nguyên nhân gây ra thiếu nước sạch cho người dân ở các vùng nông thôn như:

  • Thiếu nước sạch do thời tiết mùa khô thường nắng nóng & ít mưa; bằng cách có nơi tích trữ nước sạch cho cả cộng đồng sử dụng khi mua khô tới, đồng thời cũng giúp người dân không phải đi xa kiếm nước sạch và những nhà hảo tâm cũng không phải mang nước qua một quãng đường dài để hỗ trợ người dân.
  • Thiếu nước sạch do giá cả tăng cao; bằng cách này người dân sẽ không phải trả hoặc chỉ phải trả một khoản rất nhỏ để duy trì các công trình công cộng.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Mặc dù giải pháp này thực sự có hiệu quả thực tế, tuy nhiên việc thiếu nước sạch ở nông thôn không phải chỉ vì 2 lí do trên mà còn vì nhiều lí do khác, chẳng hạn như sử dụng nước sạch lãng phí hoặc ô nhiễm nguồn nước.

  • Ở đây, sử dụng nước lãng phí không chỉ là việc không tắt vòi nước sau khi dùng hay rửa xe quá nhiều lần trong một tuần, mà còn là việc sử dụng nước quá mức trong các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Khi không giải quyết được nguyên nhân này, nghĩa là vô tình khiến con người quên sự thật rằng lượng nước sạch vốn có hạn, và lượng nước sạch uống được lại càng ít. Cùng với đó là sự không công bằng trong việc sử dụng nước khi người có điều kiện hơn lại được sử dụng nhiều nước sạch hơn.
  • Thứ hai, nguyên nhân ô nhiễm nguồn nước. Khi không giải quyết nguyên nhân này, nghĩa là không giải quyết sự thật rằng khi nước ở 1 khu vực đã bị ô nhiễm thì những khu vực xung quanh cũng có nguy cơ ô nhiễm theo. Như vậy, một giải pháp tuy tốt nhưng nếu chỉ tập trung vào việc giải quyết một vài nguyên nhân mà không giải quyết những nguyên nhân còn lại thì không thể giải quyết triệt để vấn đền thiếu nước sạch.
2. Tuyên truyền về việc chăm sóc sức khỏe bản thân và cộng đồng Giải pháp này là gì? Làm được gì?

Sức khoẻ của mỗi cá nhân có liên quan trực tiếp tới sức khoẻ của một cộng đồng. Ví dụ như trong giai đoạn dịch Covid-19 bùng phát, việc kiểm soát dịch gặp nhiều khó khăn vì đây là bệnh lây qua đường hô hấp, nhưng trước đó chưa có quy định đeo khẩu trang nơi công cộng, lúc này 1 cá nhân chẳng may bị lây bệnh sẽ lại trở thành nguồn bệnh và lây nhiễm cho những người xung quanh. Chính vì thế mà có một biện pháp thường được nghĩ tới đầu tiên là "Tuyên truyền về việc chăm sóc sức khỏe bản thân và cộng đồng". Việc tuyên truyền có thể được khởi xướng bởi nhiều bên, như Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, trường học, doanh nghiệp, hay thậm chí là các cá nhân.


Giải pháp tập trung vào giải quyết các nguyên nhân từ phía cá nhân là ý thức, hành vi và kiến thức về bảo vệ sức khoẻ bản thân và cộng đồng chưa đủ tốt. Giải pháp này có tác dụng là có thể tiếp cận được nhiều đối tượng, từ người lớn tới trẻ em, ở mọi miền tổ quốc và có thể liên tục cập nhật thông tin theo thời gian. Việc tuyên truyền thường tập trung vào việc nói về tầm quan trọng của sức khoẻ, những ảnh hưởng của việc thiếu sức khoẻ tới cuộc sống con người, các bệnh thường gặp/bệnh dịch nghiêm trọng và nguyên nhân của nó, và cách để bảo vệ bản thân và cộng đồng, v.v. Nhờ có những hoạt động tuyên truyền như vậy, nhiều người đã có ý thức hơn về chăm sóc sức khoẻ bản thân và cách để phòng tránh bệnh dịch.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Mặc dù giải pháp đã mang lại nhiều thay đổi tích cực về mặt nhận thức và hành vi của mọi người, nhưng giải pháp lại không giải quyết nhiều nguyên nhân quan trọng khác như: địa lý, dân số, yếu tố di truyền, môi trường sống, quan niệm/hủ tục lạc hậu, thu nhập, v.v.

  • Chẳng hạn giải pháp đã không giải quyết nguyên nhân môi trường, ví dụ như ô nhiễm không khí & ô nhiễm nguồn nước. Việc không giải quyết những yếu tố môi trường đồng nghĩa với việc không giải quyết nguyên nhân gây bệnh, điều này khiến cho tình trạng sức khoẻ của người dân ở những khu vực đó luôn bị đe doạ dù có được thường xuyên cập nhật cách chăm sóc sức khoẻ.
  • Hoặc một nguyên nhân khác là thu nhập, việc tuyên truyền chỉ dừng lại ở bước nâng cao ý thức, nhưng đối với những căn bệnh phức tạp thì người bệnh vẫn cần được chăm sóc ở những cơ sở y tế chuyên nghiệp và hiện đại. Và để được chăm sóc như vậy người bệnh phải có khả năng chi trả một khoản tiền lớn.


Như vậy, tuy giải pháp này giúp được nhiều người nhưng vì chưa thể giải quyết được hết tất cả các nguyên nhân dẫn tới vấn đề về sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ, nên vấn đề này vẫn sẽ xảy ra.

[GCED3-Lesson1.11] Lăng kính 5 - Cộng tác: Những cá nhân/tổ chức đang giải quyết các vấn đề về sức khỏe (hoặc chăm sóc sức khỏe)
Bài này có 3 MTB:
  • MTB 1.11.a: Hiểu rằng mọi người cần cộng tác để giải quyết các vấn đề về sức khỏe & chăm sóc sức khỏe tốt hơn
  • MTB 1.11.b: Nhận biết một số nỗ lực cộng tác của những người xung quanh để giải quyết các vấn đề về sức khỏe & chăm sóc sức khỏe
  • MTB 1.11.c: Nhận biết một số nỗ lực cộng tác của các cá nhân/tổ chức trên thế giới để giải quyết các vấn đề về sức khỏe & chăm sóc sức khỏe

Để đạt được các MTB này, thầy cô có thể:

  • Chọn một vấn đề X mà thầy cô nghĩ rằng HS sẽ quan tâm, hoặc một vấn đề nào đó HS thường chưa biết tới, và có liên quan đến chủ đề "Nước sạch",
  • Làm rõ lí do vì sao một cá nhân không thể giải quyết vấn đề này một cách triệt để
  • Sau đó, thầy cô có thể chọn nói về những nỗ lực cộng tác giữa:
    • Tổ chức A với tổ chức B: Có thể đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc các tổ chức nhỏ vốn hoạt động độc lập, tuy nhiên để giải quyết vấn đề X nên đang hoạt động cùng nhau. Hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia.
    • Tổ chức A với người dân: Không chỉ đề cập tới những trường hợp mà tổ chức A cho người dân gì đó một chiều, mà nên đề cập tới những mối quan hệ hai chiều. VD: cộng tác với chính quyền địa phương để cùng đào tạo trẻ em về thói quen giữ gìn vệ sinh, bảo vệ nước.
    • Hoặc giữa các cá nhân với nhau

Mục đích của việc này là để HS hiểu rằng các vấn đề toàn cầu vô cùng phức tạp và không một nỗ lực nhỏ lẻ của từng cá nhân nào có thể giải quyết triệt để các vấn đề toàn cầu, mà cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức khác nhau.


Lưu ý: ở khối lớp này, khả năng cao là HS chưa biết về tên và công việc của các tổ chức/cá nhân mà GV đề cập tới, hay phân biệt được đâu là các tổ chức thuộc chính phủ và phi chính phủ. GV cũng không cần giới thiệu quá nhiều thông tin phức tạp về các cá nhân/tổ chức vì có thể HS sẽ không hiểu được. Thay vào đó, GV chỉ nên tập trung nói về việc cá nhân/tổ chức này là ai, hay làm những việc gì, và công việc cụ thể của họ đối với vấn đề thiếu nước sạch là gì.


Dưới đây là ví dụ để thầy cô tham khảo:


Tại sao cá nhân lại không thể tự mình giải quyết vấn đề?

Ví dụ về một vấn đề cần sự cộng tác để giải quyết: Thiếu nước sạch sau mùa lũ

(GV có thể tham khảo video "Người dân vùng lũ khát nước sạch" để hiểu hơn về vấn đề thiếu nước sạch sau mùa lũ).


Sau mưa lũ, những vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai thường phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng. Chất thải từ cống rãnh, bùn đất, và xác động vật lẫn vào các sông, suối, ao hồ, tạo ra một môi trường thuận lợi cho vi khuẩn, vi-rút và ký sinh trùng sinh sôi. Điều này không chỉ làm gia tăng nguy cơ lan truyền mầm bệnh, mà còn khiến người dân thiếu nước sạch cho sinh hoạt và ăn uống. Cơ thể mất nước có thể dẫn đến mất nước, gây mệt mỏi, chóng mặt và trong những trường hợp nghiêm trọng, có thể đe dọa đến tính mạng.


Trước những thách thức lớn lao này, một cá nhân không thể đơn độc giải quyết mọi vấn đề. Thứ nhất, tình trạng ô nhiễm nước ảnh hưởng đến nhiều hộ gia đình và trên một khu vực rộng lớn, vì vậy một cá nhân không thể xử lý nguồn nước ô nhiễm cho toàn bộ cộng đồng. Việc này sẽ cần rất nhiều thời gian và công sức, nếu chỉ có một cá nhân thực hiện thì vấn đề thiếu nước sạch sau lũ sẽ không được giải quyết kịp thời, thậm chí có thể khiến những ảnh hưởng sau lũ trở nên trầm trọng hơn. Thứ hai, việc khôi phục nguồn nước sạch đòi hỏi đầu tư vào hệ thống xử lý, xây dựng cơ sở hạ tầng, và trang bị thiết bị chuyên dụng, điều mà cá nhân thường không đủ khả năng tài chính, nguồn lực và kiến thức để thực hiện.


Chính vì vậy, cần có sự cộng tác chặt chẽ giữa các cá nhân và tổ chức để cùng nhau giải quyết vấn đề thiếu nước sạch sau mùa lũ, hướng tới một tương lai an toàn và bền vững cho cộng đồng.


Đã có những nỗ lực cộng tác nào để giải quyết vấn đề? Những cá nhân/tổ chức tham gia vào nỗ lực đó là ai?

Ví dụ về một nỗ lực cộng tác: Quyên góp nước uống đóng chai

(GV có thể tham khảo bài viết "Hành trình đưa nước sạch tới người dân vùng ngập lũ sau bão số 3" để hiểu hơn về quá trình mang nước sạch tới người dân vùng lũ).


Để giúp người dân vùng lũ mau chóng trở lại cuộc sống bình thường, nhiều cá nhân/tổ chức đã cùng chung tay giải quyết các vấn đề liên quan đến nước sạch. Một trong số những nỗ lực cộng tác thường thấy là giữa chính quyền địa phương và các nhà hảo tâm (là các cá nhân và tổ chức) mang nước đóng uống đóng chai tới cho người dân vùng lũ. Nỗ lực này hướng tới việc giải quyết nhu cầu thiết yếu của người dân ngay tức thì. Hơn nữa nước đóng chai được xử lý và đóng gói trong điều kiện an toàn, giúp giảm nguy cơ lây lan dịch bệnh do nước ô nhiễm. Nước đóng chai cũng dễ dàng vận chuyển và phân phát, giúp tổ chức cứu trợ thực hiện nhanh chóng và hiệu quả.


Một số cá nhân và tổ chức thường tham gia vào nỗ lực này bao gồm:

  • Chính quyền địa phương: Đóng vai trò chủ đạo trong việc chỉ đạo công tác cứu hộ và phân phát nước sạch được quyên góp đến tay người dân.
  • Các tập đoàn, công ty sản xuất nước: Ví dụ như Tập đoàn TH, họ cung cấp hàng ngàn chai nước đóng chai cho người dân thông qua sự hợp tác với chính quyền địa phương.
  • Lực lượng thanh niên tình nguyện và bộ đội: Là những người tình nguyện, họ không ngại khó khăn để mang nước uống đến tận tay từng gia đình, đặc biệt là những hộ đang gặp khó khăn do bị cô lập sau lũ hoặc không thể di chuyển.

K3: Sức khỏe & chăm sóc sức khỏe

[GCED3-Lesson1.6] Lăng kính 2 - Tư duy Hệ thống: Giải pháp cho các vấn đề về sức khỏe & chăm sóc sức khỏe
Bài này có 3 MTB:
  • MTB 1.6.a: Hiểu rằng sức khỏe của mọi người sẽ không được cải thiện nếu chưa giải quyết được những nguyên nhân gây ảnh hưởng tới sức khỏe.
  • MTB 1.6.b: Hiểu rằng mọi người sẽ không được chăm sóc y tế đầy đủ, kịp thời nếu như những rào cản hiện tại chưa biến mất.
  • MTB 1.6.c: Nhận biết một số giải pháp đã được thực hiện để mọi người có sức khỏe tốt, và được chăm sóc y tế đầy đủ, kịp thời hơn


Để đạt 3 MTB này, thầy cô có thể (1) nói về việc giải pháp cho các vấn đề liên quan tới sức khỏe & chăm sóc sức khỏe sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không giải quyết được nguyên nhân A dẫn tới vấn đề, và (2) giới thiệu những giải pháp đã giải quyết được nguyên nhân dẫn tới A, và lợi ích cụ thể của những giải pháp này.


Vậy bình luận về giải pháp như thế nào? Thầy cô có thể:

  • chọn trước một giải pháp X mà mình muốn giới thiệu cho HS, sau đó nói về việc giải pháp này đã giúp giải quyết nguyên nhân A nào (khiến mọi người không có đủ nước sạch), và giải pháp đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.
  • hoặc, chọn một vấn đề mà thầy cô nghĩ HS cần quan tâm, sau đó nói về nguyên nhân A gây ra vấn đề này, và đã có giải pháp X nào hướng tới nguyên nhân A này, đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.


Giống như mọi giải pháp khác, giải pháp X mà thầy cô lấy làm ví dụ chắc chắn sẽ không giải quyết được mọi nguyên nhân. Do đó, thầy cô nên dẫn dắt để HS hiểu rằng giải pháp vừa nêu sẽ không giải quyết được nguyên nhân B, C, v.v. ra sao, và việc không có sức khỏe tốt hay không được chăm sóc sức khỏe vẫn sẽ tiếp diễn như thế nào khi B, C, v.v. vẫn còn tồn tại. Làm vậy không phải để phủ nhận giải pháp X, mà để cho HS hiểu rằng để giải quyết triệt để vấn đề thì mọi người sẽ cần làm nhiều việc hơn là X.


Dưới đây là một số ví dụ về giải pháp để thầy cô tham khảo:

Giải pháp Bình luận về giải pháp này
1. Khám chữa bệnh miễn phí Giải pháp này là gì? Làm được gì?

(GV có thể tham khảo bài viết "Khám bệnh, tặng tủ thuốc miễn phí cho người nghèo, gia đình chính sách ở Nam Đông" để bước đầu hiểu được giải pháp "Khám chữa bệnh miễn phí" có nghĩa là gì)


Sức khoẻ rất đáng quý với mỗi người, tuy nhiên không phải ai cũng có điều kiện để được chăm sóc sức khoẻ kịp thời và đầy đủ. Đặc biệt là đối với những người có hoàn cảnh sống khó khăn thì việc có được một điều kiện chăm sóc sức khoẻ tốt lại càng khó hơn. Ví dụ như những người sống ở khu vực hẻo lánh, xa trung tâm, nếu cần phải đưa đi cấp cứu sẽ rất khó khăn. Hoặc do điều kiện kinh tế của họ không đủ tốt để chi trả các dịch vụ y tế đắt đỏ, mà buộc phải chịu đựng bệnh tật hoặc tìm tới các phương pháp chữa trị không đảm bảo. Hệ quả là những người càng nghèo lại càng thường xuyên đau ốm hơn và buộc phải bỏ tiền để chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn so với những người khác.


Để giúp đỡ những người dân có hoàn cảnh khó khăn, một giải pháp khá nổi bật là chương trình "Khám chữa bệnh miễn phí" được tổ chức bởi các y - bác sĩ tình nguyện. Các chương trình này phần nào giải quyết được một số nguyên nhân gây ra các vấn đề về sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ là:

  • Vấn đề địa lí; bằng cách này người dân không phải mất công đi xa để kiểm tra sức khoẻ
  • Vấn đề tài chính; bằng cách này người dân được khám bệnh, tư vấn chăm sóc sức khoẻ và cấp phát thuốc miễn phí


Giải pháp này chưa làm được gì?

Mặc dù đây là một giải pháp nhân văn, tuy nhiên vẫn chưa thể giải quyết được nhiều nguyên nhân dẫn tới vấn đề sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ (nhất là với những người có hoàn cảnh khó khăn) như: yếu tố di truyền, hành vi/thói quen sinh hoạt, môi trường sống, quan niệm/hủ tục lạc hậu, thu nhập, v.v.

  • Chẳng hạn, giải pháp tuy có cung cấp dịch vụ tư vấn chăm sóc sức khoẻ cho người dân, nhưng lại không giải quyết các nguyên nhân từ môi trường, ví dụ như ô nhiễm không khí & ô nhiễm nguồn nước. Việc không giải quyết những yếu tố môi trường đồng nghĩa với việc không giải quyết nguyên nhân gây bệnh, điều này khiến cho tình trạng sức khoẻ của người dân ở những khu vực đó luôn bị đe doạ dù có được thường xuyên khám sức khoẻ miễn phí.
  • Hoặc một nguyên nhân khác là thu nhập, việc khám chữa bệnh miễn phí chỉ có thể giải quyết những bệnh thông thường, đối với những căn bệnh phức tạp thì người bệnh vẫn cần được chăm sóc ở những cơ sở y tế chuyên nghiệp và hiện đại. Và để được chăm sóc như vậy người bệnh phải có khả năng chi trả một khoản tiền lớn.


Như vậy, tuy giải pháp này giúp được nhiều người nhưng vì chưa thể giải quyết được hết tất cả các nguyên nhân dẫn tới vấn đề về sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ, nên vấn đề này vẫn sẽ xảy ra.

2. Tuyên truyền việc sử dụng nước tiết kiệm Giải pháp này là gì? Làm được gì?

Tình trạng thiếu nước sạch có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới, từ nông thôn tới thành thị. Với tình trạng thời tiết diễn ra phức tạp như hiện nay, nhiều nơi còn gặp phải tình trạng khô hạn, gây ra thiệt hại nặng về người và của. Trái ngược với điều đó, nhiều người vẫn sử dụng nước sạch vô cùng lãng phí. Một số biểu hiện dễ quan sát là không tắt nước sau khi sử dụng, giặt đồ ít nhưng lại sử dụng nhiều nước, rửa xe nhiều lần trong thời gian ngắn, v.v.


Do đó, có một giải pháp được áp dụng khá phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới là "Tuyên truyền sử dụng tiết kiệm nước". Việc tuyên truyền có thể được khởi xướng bởi nhiều bên, như Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, trường học, doanh nghiệp, hay thậm chí là các cá nhân. Giải pháp tập trung vào giải quyết nguyên nhân thiếu nước sạch là do nhiều người chưa có ý thức sử dụng nước tiết kiệm.


Giải pháp này có tác dụng là có thể tiếp cận được nhiều đối tượng, từ người lớn tới trẻ em, ở mọi miền tổ quốc và có thể liên tục cập nhật thông tin theo thời gian. Việc tuyên truyền thường tập trung vào việc nói về tầm quan trọng của nguồn nước, những ảnh hưởng của tình trạng thiếu nước tới cuộc sống con người và cách để bảo vệ nguồn nước như tiết kiệm nước ở nhà, không vứt rác hay xả chất thải độc hại ra môi trường nước, v.v. Nhờ có những hoạt động tuyên truyền như vậy, nhiều người đã có ý thức hơn về vấn đề thiếu nước sạch và thực hành tiết kiệm nước trong cuộc sống.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Có thể thấy rằng giải pháp tuyên truyền hiện đã phần nào giải quyết được tới một số nguyên nhân của thiếu nước sạch, tuy nhiên vấn đề thiếu nước sạch xảy ra vì nhiều nguyên nhân khác nhau bên cạnh ý thức con người, đó là:

  • Nguyên nhân từ tự nhiên như trái đất nóng lên gây ra tình trạng hạn hán ở nhiều nơi
  • Hoạt động mang tính hệ thống của con người (như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, v.v.)
  • Giá nước sạch và nước uống đảm bảo vệ sinh ngày càng tăng
  • v.v.


Chẳng hạn. hạn giải pháp này mới chỉ hướng tới đối tượng chủ yếu lại là những người sử dụng nước sinh hoạt hàng ngày, còn các bên sử dụng số lượng nước lớn trong các ngành nông nghiệp và công nghiệp thì gần như chưa thể tiếp cận được, đồng nghĩa với việc các hoạt động sản xuất của các bên này vẫn diễn ra và sử dụng một lượng lớn nước sạch mỗi năm. Chưa kể tới việc tuyên truyền cũng không thể giải quyết được nguyên nhân là giá nước sinh hoạt và giá nước đóng chai cao.


Có thể thấy là mặc dù giải pháp này giúp nhiều người nhận thức vấn đề hơn, nhưng vì chưa thể giải quyết được các nguyên nhân khác dẫn tới tình trạng thiếu nước sạch, nên vấn đề này vẫn sẽ xảy ra.

[GCED3-Lesson1.11] Lăng kính 5 - Cộng tác: Những cá nhân/tổ chức đang giải quyết các vấn đề về sức khỏe (hoặc chăm sóc sức khỏe)
Bài này có 3 MTB:
  • MTB 1.11.a: Hiểu rằng mọi người cần cộng tác để ngăn chặn việc thiếu nước sạch tốt hơn
  • MTB 1.11.b: Nhận biết một số hành động cụ thể của mọi người xung quanh để giải quyết các vấn đề về nước sạch
  • MTB 1.11.c: Nhận biết một số nỗ lực cộng tác của các cá nhân/tổ chức trên thế giới để ngăn chặn việc thiếu nước sạch

Để đạt được các MTB này, thầy cô có thể:

  • Chọn một vấn đề X mà thầy cô nghĩ rằng HS sẽ quan tâm, hoặc một vấn đề nào đó HS thường chưa biết tới, và có liên quan đến chủ đề "Sức khỏe & chăm sóc sức khỏe"
  • Làm rõ lí do vì sao một cá nhân không thể giải quyết vấn đề này một cách triệt để
  • Sau đó, thầy cô có thể chọn nói về những nỗ lực cộng tác giữa:
    • Tổ chức A với tổ chức B: Có thể đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc các tổ chức nhỏ vốn hoạt động độc lập, tuy nhiên để giải quyết vấn đề X nên đang hoạt động cùng nhau. Hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia.
    • Tổ chức A với người dân: Không chỉ đề cập tới những trường hợp mà tổ chức A cho người dân gì đó một chiều, mà nên đề cập tới những mối quan hệ hai chiều. VD: cộng tác với chính quyền địa phương để cùng đào tạo trẻ em về thói quen giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ.
    • Hoặc giữa các cá nhân với nhau.


Mục đích của việc này là để HS hiểu rằng các vấn đề toàn cầu vô cùng phức tạp và không một nỗ lực nhỏ lẻ của từng cá nhân nào có thể giải quyết triệt để các vấn đề toàn cầu, mà cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức khác nhau.


Lưu ý: ở khối lớp này, khả năng cao là HS chưa biết về tên và công việc của các tổ chức/cá nhân mà GV đề cập tới, hay phân biệt được đâu là các tổ chức thuộc chính phủ và phi chính phủ. GV cũng không cần giới thiệu quá nhiều thông tin phức tạp về các cá nhân/tổ chức vì có thể HS sẽ không hiểu được. Thay vào đó, GV chỉ nên tập trung nói về việc cá nhân/tổ chức này là ai, hay làm những việc gì, và công việc cụ thể của họ để mọi người có sức khỏe tốt hơn là gì.


Dưới đây là ví dụ để thầy cô tham khảo:


Tại sao cá nhân lại không thể tự mình giải quyết vấn đề?

Ví dụ về một vấn đề cần sự cộng tác để giải quyết: Trẻ em nhỏ tuổi thường có sức khỏe yếu/sức đề kháng kém

(GV có thể tham khảo bài viết ""Góc tư vấn: Tại sao sức đề kháng của trẻ dễ suy giảm từ tháng thứ 6?"" để hiểu thêm về vấn đề sức đề kháng kém ở trẻ

Trong lịch sử nhân loại đã có nhiều dịch bệnh diễn ra cướp đi mạng sống của rất nhiều người. Gần đây chúng ta cũng đã chứng kiến những ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 ở nhiều nơi trên thế giới. Trong số những người chịu ảnh hưởng, đối tượng trẻ nhỏ là dễ mắc bệnh hơn do hệ miễn dịch của các em vẫn chưa hoàn thiện, khiến các em dễ bị tổn thương trước các tác nhân gây bệnh. Ngoài ra, sự thiếu hụt thông tin và biện pháp phòng ngừa hiệu quả cũng làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm cho trẻ em trong bối cảnh dịch bệnh.


Để cùng lúc giúp cho nhiều trẻ em được chăm sóc sức khoẻ, nỗ lực của một cá nhân là hoàn toàn không thể vì nhiều lý do. Thứ nhất, vấn đề liên quan đến sức khoẻ xảy ra do nhiều nguyên nhân như môi trường, di truyền, và điều kiện xã hội; mà cá nhân không thể nào và không bao giờ có thể giải quyết hết được. Thứ hai, để giải quyết các vấn đề sức khỏe yêu cầu kiến thức và kỹ năng chuyên môn mà một cá nhân thường không có. Thay vào đó phải nhờ đến các bác sĩ và chuyên gia trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ. Thứ ba, việc triển khai các biện pháp phòng ngừa, như tiêm chủng hay giáo dục sức khỏe, thường đòi hỏi nguồn lực tài chính và vật chất mà cá nhân không thể cung cấp. Cuối cùng nếu chỉ một cá nhân cố gắng giải quyết vấn đề sức khỏe mà không có sự tham gia và hỗ trợ của cộng đồng, nguy cơ bùng phát bệnh tật vẫn tồn tại và có thể gây nguy hiểm cho cả xã hội.


Do đó, cần có sự cộng tác chặt chẽ giữa các cá nhân và tổ chức để cùng nhau xây dựng một cơ chế phòng bệnh hiệu quả cho trẻ.


Đã có những nỗ lực cộng tác nào để giải quyết vấn đề? Những cá nhân/tổ chức tham gia vào nỗ lực đó là ai?

Ví dụ về một nỗ lực cộng tác: Chương trình Tiêm chủng Mở rộng Quốc gia

(GV có thể tham khảo bài viết "Tìm hiểu về tiêm chủng cho trẻ em" để hiểu hơn về Chương trình Tiêm chủng Mở rộng Quốc gia do UNICEF và WHO hỗ trợ Việt Nam tổ chức)


Để bảo vệ trẻ em trên thế giới một cách hiệu quả trước các bệnh thường gặp, nhiều nỗ lực được triển khai giữa các tổ chức quốc tế lớn và các quốc gia, một trong số những nỗ lực thường thấy là việc tổ chức các chương trình tiêm chủng diện rộng. Nỗ lực này nhằm cung cấp các loại vaccine miễn phí cho trẻ em. Theo đó trẻ em trong độ tuổi quy định sẽ được tiêm ngừa các loại vaccine quan trọng hoàn toàn miễn phí. Ví dụ, ở Việt nam, UNICEF và WHO phối hợp với chính phủ để triển khai các chương trình tiêm chủng cho trẻ em, giúp ngăn ngừa các bệnh nguy hiểm đến tính mạng.Tới nay chương trình đã kéo dài trên 40 năm, giúp hàng triệu trẻ em Việt Nam được bảo vệ khỏi các bệnh như bại liệt, ho gà, uốn ván.


Một số cá nhân/tổ chức thường tham gia vào nỗ lực này như:

  • Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF): là tổ chức chủ yếu giải quyết các vấn đề liên quan đến sự phát triển của trẻ (như tiêm chủng, sức khoẻ, dinh dưỡng và nước sạch vệ sinh)
  • và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): là tổ chức có vai trò lãnh đạo về các vấn đề quan trọng đối với sức khoẻ toàn cầu.

Cả UNICEF và WHO đều có quy mô và sức ảnh hưởng toàn cầu, với văn phòng tại nhiều quốc gia. Hai tổ chức này có chung một đối tượng quan tâm là sức khoẻ của trẻ em nên đã cộng tác với nhau xây dựng nên Chương trình Tiêm chủng Mở rộng cùng với:

  • Chính quyền địa phương: Đảm nhiệm vai trò chỉ đạo thực hiện chương trình, từ việc tiếp nhận vaccine, lập danh sách trẻ em trong độ tuổi tiêm chủng cho đến xác định khu vực tiêm chủng đáp ứng yêu cầu y tế
  • Các bác sĩ và y tá: Tham gia huấn luyện tiêm chủng và thực hiện tiêm chủng tại khu vực được chính quyền chỉ định, đảm bảo rằng quá trình tiêm chủng diễn ra an toàn và hiệu quả.

K4: Động & thực vật trên Trái Đất

[GCED4-Lesson1.6] Lăng kính 2 - Tư duy Hệ thống: Phân tích các giải pháp bảo vệ động & thực vật
Bài này có 3 MTB:
  • MTB 1.6.a: Hiểu rằng giải pháp bảo vệ động & thực vật cần cân nhắc các nguyên nhân gây ra vấn đề
  • MTB 1.6.b: Hiểu rằng giải pháp bảo vệ động & thực vật cũng cần hướng tới việc duy trì, và phát triển số lượng cho những loài động & thực vật đang bị đe dọa
  • MTB 1.6.c: Nhận biết một số giải pháp đã được triển khai trên thế giới để bảo vệ động & thực vật


Để đạt 3 MTB này, thầy cô có thể (1) nói về việc giải pháp cho vấn đề về động & thực vật sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không giải quyết được nguyên nhân A dẫn tới vấn đề, (2) nói về việc giải pháp cho vấn đề về động & thực vật sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không giảm thiểu được thực trạng của vấn đề, và (3) giới thiệu những giải pháp đã giải quyết được nguyên nhân dẫn tới vấn đề, hoặc giảm thiểu được thực trạng của vấn đề, và lợi ích cụ thể của những giải pháp này.


Vậy bình luận về giải pháp như thế nào? Thầy cô có thể:

  • chọn trước một giải pháp X mà mình muốn giới thiệu cho HS, sau đó nói về việc giải pháp này đã giúp giải quyết nguyên nhân A nào (hoặc, đã giảm thiểu thực trạng vấn đề như thế nào), và giải pháp đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.
  • hoặc, chọn một vấn đề mà thầy cô nghĩ HS cần quan tâm, sau đó nói về nguyên nhân A gây ra vấn đề này, và đã có giải pháp X nào hướng tới nguyên nhân A này (hoặc nói về việc giải pháp X đã giảm thiểu thực trạng của vấn đề như thế nào), đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.


Giống như mọi giải pháp khác, giải pháp X mà thầy cô lấy làm ví dụ có thể sẽ không giải quyết được mọi nguyên nhân, hoặc giảm thiểu được triệt để thực trạng của vấn đề). Do đó, thầy cô nên dẫn dắt để HS hiểu rằng giải pháp vừa nêu sẽ không giải quyết được nguyên nhân B, C, v.v. ra sao, và có thể sẽ không giảm thiểu được thực trạng của vấn đề như thế nào. Làm vậy không phải để phủ nhận giải pháp X, mà để cho HS hiểu rằng để giải quyết triệt để vấn đề thì mọi người sẽ cần làm nhiều việc hơn là X.


Dưới đây là một ví dụ về giải pháp để thầy cô tham khảo:

Giải pháp Bình luận về giải pháp này
1. Trồng cây gây rừng Giải pháp này là gì? Làm được gì?

(GV có thể tham khảo bài viết "Trồng cây, trồng rừng hiệu quả, thiết thực" để bước đầu hiểu được giải pháp "Trồng cây gây rừng" có nghĩa là gì)


Rừng là lá phổi xanh của Trái đất, vì rừng cung cấp khí oxy cho quá trình hô hấp của con người và các sinh vật khác, nếu không có rừng thì sẽ cuộc sống của con người và các loài động vật sẽ trở nên vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chúng ta có thế thấy trên nhiều phương tiện truyền thông đại chúng, các thông tin về thiệt hại của những trận bão lũ, sạt lỡ đất, v.v. đang diễn ra nhiều hơn với mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng hơn; điều đó một phần là vì diện tích rừng đang bị suy giảm nghiêm trọng khiến cho lớp đất bề mặt yếu đi và dễ chịu tác động của thời tiết hơn.


Một trong những giải pháp thường được áp dụng để khôi phục diện tích rừng là kêu gọi mọi người cùng "trồng cây gây rừng". Việc trồng rừng được diễn ra ở nhiều khu vực, với nhiều loài cây khác nhau. Giải pháp này tập trung vào giải quyết:

  • Thực trạng số lượng cây xanh đang giảm dần; bằng cách này một số lượng cây lớn và đa dạng chủng loại sẽ được trồng để phủ xanh các khu đất trống hoặc các khu vực đã bị con người chặt phá.
  • Đồng thời tập trung vào nguyên nhân ý thức con người; bằng cách kêu gọi nhiều người cùng tham gia, xã hội sẽ quan tâm tới việc bảo vệ cây cối xung quanh hơn.
  • và một phần hướng tới các nguyên nhân mang tính hệ thống hơn (VD: rừng bị chặt phá để làm nương rẫy, hoặc xây nhà máy xí nghiệp); bằng cách này sẽ kêu gọi cộng đồng cùng tạo áp lực khiến những doanh nghiệp này phải tham gia trồng rừng để bù lại việc đã sử dụng đất rừng vào công việc của họ.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Mặc dù giải pháp này đã thực sự giúp nhiều cánh rừng được phục hồi, nhưng lại không giải quyết được nhiều nguyên nhân khác của việc suy giảm thực vật. Một số nguyên nhân đã bị không giải quyết như nguyên nhân từ tự nhiên, hành vi của con người, những nguyên nhân mang tính hệ thống (VD: chặt phá rừng, nông nghiệp, v.v).

  • Chẳng hạn ở đây, giải pháp trồng rừng đã không giải quyết các nguyên nhân tự nhiên như nắng nóng dẫn đến cháy rừng, hoặc mưa bão nhiều khiến cây bị bật gốc rễ, thời tiết thất thường khiến các loài sinh vật hại phát triển. Việc không giải quyết những yếu tố tự nhiên nghĩa là không giải quyết việc cân nhắc môi trường phát triển của cây, khiến cho việc trồng cây cho dù có được nhiều đến đâu thì khả năng sinh trưởng của cây cũng sẽ không được đảm bảo.
  • Hoặc không giải quyết nguyên nhân liên quan đến các hành vi sai trái của con người, bao gồm cả những hành vi có tác động trực tiếp đến thực vật (VD: chặt cây) và các hành vi tác động gián tiếp (VD: sử dụng phương tiện giao thông chạy bằng xăng, dầu khiến cho không khí bị ô nhiễm, lâu dần khói, bụi và các hợp chất hóa học trong không khí bám vào bề mặt lá cây, làm giảm khả năng quang hợp của cây, dẫn đến cây không thể sống được). Điều đó còn chưa kể, khi các loài cây có giá trị kinh tế được trồng lại, nhiều đối tượng xấu sẽ nghĩ tới việc khai thác trộm để trục lợi, như vậy giải pháp trồng rừng lại vô tình khiến việc chặt phá rừng diễn ra nhiều hơn.
  • Một hạn chế khác là việc "trồng rừng" chỉ giải quyết một phần nguyên nhân liên quan tới các hoạt động hệ thống (VD: sản xuất nông nghiệp-công nghiệp) như đã nói ở trên, bản thân giải pháp này chưa thực sự hạn chế được tốc độ phát triển các hoạt động hệ thống trong thực tế. Có nghĩa là, kể cả khi một cánh rừng mới được trồng lại, thì khí thải/chất thải từ những xí nghiệp và nông trường xung quanh vẫn luôn đe doạ đến sự phát triển bền vững của thảm thực vật ở đó.


Như vậy, tuy giải pháp này giúp hồi phục số lượng cây nhưng vì tập trung giải quyết thực trạng, mà chưa thể giải quyết được các nguyên nhân khác gây đe dọa tới thực vật, nên vấn đề này vẫn sẽ xảy ra.

[GCED4-Lesson1.11] Lăng kính 5 - Cộng tác: Những cá nhân/tổ chức đang bảo vệ các loài động & thực vật trên thế giới
Bài này có 2 MTB:
  • MTB 1.11.a: Hiểu rằng cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau để cùng bảo vệ các loài động & thực vật
  • MTB 1.11.b: Liệt kê một số nỗ lực cộng tác của các cá nhân/tổ chức trên thế giới để cùng bảo vệ các loài động & thực vật

Để đạt được các MTB này, thầy cô có thể:

  • Chọn một vấn đề X mà thầy cô nghĩ rằng HS sẽ quan tâm, hoặc một vấn đề nào đó HS thường chưa biết tới, và có liên quan đến chủ đề "Động & thực vật trên Trái Đất"
  • Làm rõ lí do vì sao cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau để cùng bảo vệ các loài động & thực vật?
  • Sau đó, thầy cô có thể chọn nói về những nỗ lực cộng tác giữa:
    • Tổ chức A với tổ chức B: Có thể đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc các tổ chức nhỏ vốn hoạt động độc lập, tuy nhiên để giải quyết vấn đề X nên đang hoạt động cùng nhau. Hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia.
    • Tổ chức A với người dân: Không chỉ đề cập tới những trường hợp mà tổ chức A cho người dân gì đó một chiều, mà nên đề cập tới những mối quan hệ hai chiều. VD: cộng tác với chính quyền địa phương để cùng bảo vệ một loài động & thực vật nào đó.
    • Hoặc giữa các cá nhân với nhau.


Mục đích của việc này là để HS hiểu rằng các vấn đề toàn cầu vô cùng phức tạp và không một nỗ lực nhỏ lẻ của từng cá nhân nào có thể giải quyết triệt để các vấn đề toàn cầu, mà cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức/bộ máy, đến từ nhiều lĩnh vực/xuất xứ khác nhau.


Lưu ý: ở khối lớp này, khả năng cao là HS chưa biết về tên và công việc của các tổ chức/cá nhân mà GV đề cập tới, hay phân biệt được đâu là các tổ chức thuộc chính phủ và phi chính phủ. GV cũng không cần giới thiệu quá nhiều thông tin phức tạp về các cá nhân/tổ chức vì có thể HS sẽ không hiểu được. Thay vào đó, GV chỉ nên tập trung nói về việc cá nhân/tổ chức này là ai, hay làm những việc gì, và công việc cụ thể của họ để bảo vệ động & thực vật là gì.


Dưới đây là ví dụ để thầy cô tham khảo:


Tại sao cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau để cùng bảo vệ các loài động & thực vật?

Ví dụ về một vấn đề cần sự cộng tác để giải quyết: Nhiều động & thực vật trên Trái Đất đang bị tuyệt chủng


Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng chúng ta đang sống trong thời kỳ Đại tuyệt chủng lần thứ 6, khi mà nhiều loài động và thực vật trên hành tinh đang bị đe dọa nghiêm trọng. Vấn đề này không chỉ dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học trong hệ sinh thái mà còn gây ra những ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống con người, bởi chúng ta phụ thuộc vào các loài động thực vật để có thực phẩm và một môi trường sống an toàn. Với tốc độ phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa như vũ bão hiện nay, việc phục hồi số lượng động và thực vật trở nên cực kỳ khó khăn. Sự khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang làm gia tăng áp lực lên các loài, khiến nhiều loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Nếu không có những hành động khẩn cấp và bền vững, tương lai của cả hệ sinh thái và con người sẽ bị đe dọa nghiêm trọng.


Đây là một vấn đề mà không 1 cá nhân nào có thể tự mình giải quyết được vì nhiều lí do chẳng hạn như: Thứ nhất, nhiều loài động và thực vật có sự phân bố toàn cầu. Việc bảo vệ chúng đòi hỏi sự phối hợp giữa nhiều quốc gia, tổ chức và cộng đồng, điều mà một cá nhân không thể thực hiện một mình. Thứ hai, bảo vệ động thực vật cần nguồn lực tài chính, nhân lực và kỹ thuật lớn. Cá nhân thường không có đủ tài nguyên để thực hiện các chương trình bảo tồn quy mô lớn. Điều này cũng liên quan đến lí do thứ ba là các vấn đề liên quan đến bảo tồn đòi hỏi kiến thức chuyên môn mà một cá nhân khó có thể có đầy đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết để giải quyết các vấn đề này một cách hiệu quả. Thứ tư, các hoạt động như phát triển đô thị, nông nghiệp và công nghiệp thường ảnh hưởng tiêu cực đến động thực vật. Một cá nhân không thể kiểm soát hoặc thay đổi các hoạt động này một cách hiệu quả.


Do đó, chúng ta cần chung tay với các tổ chức/cá nhân từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau để cùng nhau ngăn chặn sự suy giảm động thực vật trên thế giới.


Đã có những nỗ lực cộng tác nào để giải quyết vấn đề? Những cá nhân/tổ chức tham gia vào nỗ lực đó là ai?

Ví dụ về một nỗ lực cộng tác: Xây dựng "Thư viện hoang dã" tại các trường học

(GV có thể tham khảo video "VTV24: Wild Lirary - Thư viện hoang dã" cho HS để các em hiểu hoạt động cộng tác trong nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của bảo tồn động thực vật)


Để bảo vệ các loài động và thực vật trên thế giới, nhiều nỗ lực cộng tác đã được triển khai bởi các cá nhân, tổ chức và chính phủ. Một trong số những nỗ lực thường thấy là hợp tác để nâng cao nhận thức về vấn đề suy giảm động thực vật, từ đó hướng tới thay đổi hành vi và khuyến khích bảo vệ các loài động thực vật xung quanh. Chẳng hạn, tại Việt Nam, một hình thức nổi bật là việc thành lập các "Thư viện hoang dã" tại các trường học trên cả nước. Mục tiêu của các thư viện hoang dã là cung cấp cơ hội được tiếp cận với sách về thiên nhiên, môi trường, các loài động, thực vật hoang dã đến với các em học sinh. Từ đó khơi gợi sự tò mò và quan tâm tới các loài động thực vật trong trẻ.


Một số cá nhân/tổ chức thường tham gia vào nỗ lực này như:

  • Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF): là một tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ thiên nhiên lớn nhất thế giới. Tổ chức này thường kết hợp với các chính phủ để xây dựng các chiến lược bảo tồn động thực vật, khôi phục hệ sinh thái và nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của đa dạng sinh học.
  • Chính quyền địa phương: Đóng vai trò cầu nối giữa các tổ chức quốc tế và cộng đồng địa phương, đảm bảo rằng các chính sách và chương trình bảo tồn được thực hiện một cách hiệu quả và phù hợp với nhu cầu của địa phương.
  • Các khu bảo tồn: Là nơi bảo vệ các loài động thực vật quý hiếm. Họ thường phối hợp với chính quyền và các tổ chức phi chính phủ để phát triển các chương trình bảo vệ động thực vật, bao gồm cả các hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng.
  • Trường học: Các trường học đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ về bảo tồn thiên nhiên thông qua các môn học trên trường và các hoạt động ngoại khoá.
  • Cá nhân tình nguyện: Các cá nhân tình nguyện có xuất thân đa dạng, nhưng cùng chung mối quan tâm về các loài động & thực vật, thường tham gia vào các dự án bảo tồn và hoạt động giáo dục, giúp lan tỏa thông điệp bảo vệ động thực vật.

K5: Quy tắc xã hội

[GCED5-Lesson1.6] Lăng kính 2 - Tư duy Hệ thống: Phân tích các giải pháp cho các vấn đề về quy tắc xã hội
Bài này có 4 MTB:
  • MTB 1.6.a: Hiểu rằng không phải quy tắc nào cũng đúng tuyệt đối, không cần thay đổi, do đó một xã hội cần thường xuyên xem xét & đánh giá các quy tắc hiện tại để đảm bảo công bằng cho mọi người
  • MTB 1.6.b: Hiểu rằng để cải thiện các quy tắc xã hội thì cần cân nhắc (1) những điểm lợi, hại của quy tắc xã hội này, (2) các quy tắc xã hội tương tự và (3) khả năng áp dụng trong thực tế
  • MTB 1.6.c: Nhận biết một số giải pháp đã được triển khai trên thế giới để giải quyết các vấn đề về quy tắc xã hội
  • MTB 1.6.d: Nhận biết những hạn chế/thiếu sót (vì chưa cân nhắc đầy đủ các yếu tố quan trọng) của những giải pháp này


Để đạt 4 MTB này, thầy cô có thể:

  • chọn trước một giải pháp X mà mình muốn giới thiệu cho HS, sau đó nói về việc giải pháp này đã giúp giải quyết nguyên nhân A nào (hoặc, đã giảm thiểu thực trạng vấn đề như thế nào), và giải pháp đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.
  • hoặc, chọn một vấn đề mà thầy cô nghĩ HS cần quan tâm, sau đó nói về nguyên nhân A gây ra vấn đề này, và đã có giải pháp X nào hướng tới nguyên nhân A này (hoặc nói về việc giải pháp X đã giảm thiểu thực trạng của vấn đề như thế nào), đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.


Giống như mọi giải pháp khác, giải pháp X mà thầy cô lấy làm ví dụ có thể sẽ không giải quyết được mọi nguyên nhân, hoặc giảm thiểu được triệt để thực trạng của vấn đề). Do đó, thầy cô nên dẫn dắt để HS hiểu rằng giải pháp vừa nêu sẽ không giải quyết được nguyên nhân B, C, v.v. ra sao, và có thể sẽ không giảm thiểu được thực trạng của vấn đề như thế nào. Làm vậy không phải để phủ nhận giải pháp X, mà để cho HS hiểu rằng để giải quyết triệt để vấn đề thì mọi người sẽ cần làm nhiều việc hơn là X.


Dưới đây là một ví dụ về giải pháp để thầy cô tham khảo:

Giải pháp Bình luận về giải pháp này
1. Ngừng cấm việc kết hôn đồng giới Giải pháp này là gì? Làm được gì?

(GV có thể tham khảo bài viết "Quyền kết hôn của người đồng tính theo pháp luật Việt Nam hiện nay" để bước đầu hiểu được giải pháp "Cho phép kết hôn đồng giới" có nghĩa là gì)


Từ xưa đến nay, chủ đề đồng giới/đồng tính vốn được coi là nhạy cảm, cuộc sống của những người đồng giới cũng thường xuyên gặp nhiều khó khăn và cản trở từ xã hội. Họ phải sống khép kín, không được thể hiện con người thật của mình, hay công khai mối quan hệ của bản thân, vì những áp lực vô hình từ các quy tắc trong xã hội. Đặc biệt là ở các nước châu Á thì tình trạng này lại càng nặng nề hơn. Từ đó, có nhiều chương trình và hoạt động đã được phát động để giúp người đồng giới được công nhận và có tiếng nói hơn trong xã hội, như Pride Parade (Diễu hành tự hào). Tuy nhiên, tình trạng phân biệt đối xử vẫn luôn diễn ra, và cụ thể là tới nay ở nhiều nơi trên thế giới, người đồng giới không được phép kết hôn, thậm chí còn bị phạt nếu tổ chức kết hôn hay sống chung với nhau.


Để cải thiện vấn đề phân biệt đối xử với người đồng giới, Chính phủ ở nhiều quốc gia đã "ngừng cấm việc kết hôn đồng giới". Giải pháp này tập trung giải quyết các nguyên nhân là:

  • Các quy tắc cũ về hôn nhân đồng giới (VD: không được cho phép, bị xử phạt nếu kết hôn, v.v.) đang không còn phù hợp; bằng cách xem xét lại luật và cân nhắc tình hình thực tế, giải pháp này cho phép người đồng giới được hưởng nhiều quyền lợi công bằng hơn; đồng thời điều này cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
  • Thiếu quy tắc thành văn bảo vệ hôn nhân đồng giới; bằng cách này họ được tạo điều kiện kết hôn theo luật.
  • Cộng đồng còn xa lạ với việc kết hôn đồng giới; việc cho phép kết hôn đồng giới sẽ góp phần thúc đẩy việc xoá bỏ định kiến, sự kỳ thị và giúp mọi người hiểu rằng đây không phải là điều gì đi ngược lại chuẩn mực sống hay các giá trị truyền thống.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Mặc dù đây có thể coi là một bước ngoặt, nhưng để giúp người đồng giới hoàn toàn nhận được sự đối xử bình đẳng của xã hội thì vẫn còn cần một chặng đường dài. Lí do là vì giải pháp này chưa giải quyết được những nguyên nhân khác dẫn tới vấn đề như:

  • Những quan điểm về hình mẫu nam - nữ lí tưởng trong một nền văn hoá (như nam thì phải mạnh mẽ còn nữ thì phải dịu dàng) sẽ rất khó để thay đổi.
  • Giải pháp này mới mới chỉ dừng ở việc "ngừng cấm" kết hôn, tuy nhiên chưa "công nhận" mối quan hệ vợ - chồng, khiến cho giải pháp chưa thực sự thoả mãn mong muốn được xã hội công nhận của những cặp đôi đồng giới. Họ sẽ không được hưởng những quyền lợi theo luật như các cặp đôi khác, ví dụ như không được nhận con nuôi hoặc không được hỗ trợ giải quyết nếu xảy ra mâu thuẫn gia đình.


Như vậy, tuy giải pháp này giúp người đồng giới được đối xử công bằng hơn trong xã hội, nhưng lại chưa thể "chạm" vào các quy tắc xã hội khác có liên quan, nên vấn đề này vẫn sẽ xảy ra.

[GCED5-Lesson1.11] Lăng kính 5 - Cộng tác: Những cá nhân/tổ chức đang giải quyết các vấn đề về quy tắc xã hội trên thế giới
Bài này có 2 MTB:
  • MTB 1.11.a: Hiểu rằng cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau để cùng giải quyết các vấn đề về quy tắc xã hội
  • MTB 1.11.b: Liệt kê một số nỗ lực cộng tác của các cá nhân/tổ chức trên thế giới để cùng giải quyết các vấn đề về quy tắc xã hội

Để đạt được các MTB này, thầy cô có thể:

  • Chọn một vấn đề X mà thầy cô nghĩ rằng HS sẽ quan tâm, hoặc một vấn đề nào đó HS thường chưa biết tới, và có liên quan đến chủ đề "Quy tắc xã hội"
  • Làm rõ lí do vì sao cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau để cùng bảo vệ các loài động & thực vật?
  • Sau đó, thầy cô có thể chọn nói về những nỗ lực cộng tác giữa:
    • Tổ chức A với tổ chức B: Có thể đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc các tổ chức nhỏ vốn hoạt động độc lập, tuy nhiên để giải quyết vấn đề X nên đang hoạt động cùng nhau. Hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia.
    • Tổ chức A với người dân: Không chỉ đề cập tới những trường hợp mà tổ chức A cho người dân gì đó một chiều, mà nên đề cập tới những mối quan hệ hai chiều. VD: cộng tác với chính quyền địa phương để cùng giải quyết vấn đề "nạn trộm cướp gia tăng tại thành phố".
    • Hoặc giữa các cá nhân với nhau.


Mục đích của việc này là để HS hiểu rằng các vấn đề toàn cầu vô cùng phức tạp và không một nỗ lực nhỏ lẻ của từng cá nhân nào có thể giải quyết triệt để các vấn đề toàn cầu, mà cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức/bộ máy, đến từ nhiều lĩnh vực/xuất xứ khác nhau.


Lưu ý: ở khối lớp này, khả năng cao là HS chưa biết về tên và công việc của các tổ chức/cá nhân mà GV đề cập tới, hay phân biệt được đâu là các tổ chức thuộc chính phủ và phi chính phủ. GV cũng không cần giới thiệu quá nhiều thông tin phức tạp về các cá nhân/tổ chức vì có thể HS sẽ không hiểu được. Thay vào đó, GV chỉ nên tập trung nói về việc cá nhân/tổ chức này là ai, hay làm những việc gì, và công việc cụ thể của họ đối với các vấn đề về quy tắc xã hội là gì.


Dưới đây là ví dụ để thầy cô tham khảo:


Tại sao cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau để cùng giải quyết các vấn đề về quy tắc xã hội?

Ví dụ về một vấn đề cần sự cộng tác để giải quyết: Quyền trẻ em bị vi phạm

(GV có thể xem video "Lao động trẻ em cướp đi tuổi thơ của hàng triệu em nhỏ Châu Phi" để hiểu rõ về thực trạng vấn đề này)


Trẻ em là mầm non của các quốc gia, để bảo vệ các em được sinh sống và phát triển khoẻ mạnh nhiều, nhiều quy định thành văn/luật đã được xây dựng để bảo vệ các em. Ví dụ như các em có quyền đi học, được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động, không bị bạo lực. Tuy nhiên, nhiều trẻ em, đặc biệt ở các nước đang phát triển, phải làm việc trong những điều kiện khắc nghiệt, từ các nhà máy dệt may đến nông trại, thậm chí trong các ngành công nghiệp nguy hiểm như khai thác khoáng sản. Họ bị ép làm việc hàng giờ liền mà không được trả lương công bằng, không có thời gian nghỉ ngơi, và không được học hành. Điều này không chỉ vi phạm quyền được bảo vệ và giáo dục mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của các em. Khi trẻ em bị buộc phải lao động, tương lai của các em bị đánh cắp, và những giá trị của công dân toàn cầu như công bằng và nhân quyền bị xói mòn. Chính vì vậy, việc bảo vệ quyền trẻ em khỏi lao động cưỡng bức là một nhiệm vụ cấp thiết, cần sự hợp tác chặt chẽ từ cộng đồng, chính phủ và các tổ chức quốc tế.


Để ngăn chặn vấn đề vi phạm quyền trẻ em thì 1 cá nhân không thể nào giải quyết được, vì nhiều lí do. Chẳng hạn như: thứ nhất, vi phạm quyền trẻ em thường có nhiều nguyên nhân và hệ quả từ các lĩnh vực khác nhau như giáo dục, y tế, kinh tế, xã hội, và pháp lý. Sự cộng tác từ nhiều chuyên ngành giúp phân tích và hiểu rõ hơn về các khía cạnh khác nhau của vấn đề, từ đó đưa ra những giải pháp toàn diện. Thứ hai, các tổ chức và cá nhân từ các lĩnh vực khác nhau có thể mang đến những góc nhìn, kiến thức và kinh nghiệm phong phú. Việc chia sẻ này không chỉ làm tăng khả năng phát hiện vấn đề mà còn tạo ra những phương pháp sáng tạo trong việc giải quyết. Thứ ba, sự cộng tác giữa các tổ chức từ nhiều lĩnh vực giúp tối ưu hóa nguồn lực, từ tài chính, nhân lực đến vật chất. Điều này không chỉ giúp triển khai các chương trình hiệu quả hơn mà còn đảm bảo rằng những trẻ em có nhu cầu sẽ nhận được sự hỗ trợ kịp thời và đúng cách. Từ đó tăng cường sức mạnh vận động và tiếng nói chung. Khi nhiều bên cùng hợp tác, khả năng gây áp lực lên các nhà hoạch định chính sách và xã hội sẽ mạnh mẽ hơn, từ đó thúc đẩy sự thay đổi tích cực.


Do đó, để giải quyết vấn đề vi phạm quyền trẻ em, sự cộng tác đa dạng giữa các cá nhân và tổ chức từ nhiều lĩnh vực là vô cùng cần thiết, giúp xây dựng một môi trường an toàn và bảo vệ quyền lợi cho trẻ em, đảm bảo rằng tất cả trẻ em đều có cơ hội phát triển và sống trong điều kiện tốt nhất.


Đã có những nỗ lực cộng tác nào để giải quyết vấn đề? Những cá nhân/tổ chức tham gia vào nỗ lực đó là ai?

Ví dụ về một nỗ lực cộng tác: Kêu gọi các doanh nghiệp/tập đoàn chấm dứt sử dụng lao động trẻ em

(GV có thể đọc bài "Nestle phải ra tòa vì bóc lột lao động trẻ em" để tìm hiểu về vụ kiện nổi tiếng liên quan đến các cáo buộc bóc lột lao động trẻ em mà công ty này phải đối mặt, và đọc thêm bài "Nestle chung tay loại bỏ tình trạng sử dụng lao động trẻ em" để thấy được những thay đổi tích cực trong cơ chế hoạt động của Nestle trong việc xóa bỏ tình trạng sử dụng lao động trẻ em)


Không hiếm để tìm thấy những vụ việc bóc lột lao động trẻ em ở nhiều nơi, và để chấm dứt được tình trạng đó thì cần có sự cộng tác của của các tổ chức. Thường thì tiếng nói của nạn nhân trong trường hợp này bị yếu thế và không được lắng nghe, vì nhiều em không có khả năng tự bảo vệ mình hoặc không thể tiếp cận các kênh hỗ trợ. Chính vì thể để cải thiện tình hình này thì nhiều tổ chức và cá nhân đã tham gia vào các chiến dịch/ để kêu gọi các chính phủ và doanh nghiệp hành động chống lại lao động trẻ em. Một ví dụ cho những nỗ lực này xoay quanh vụ kiện Nestle sử dụng lao động trẻ em trái phép.


Vụ việc bắt đầu vào năm 2013 khi Nestle bị cáo buộc sử dụng nhân công trẻ em ở Bờ biển Ngà và Ghana trong quá trình sản xuất ca cao. Vụ kiện đã kéo dài trong nhiều năm và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Một số cá nhân/tổ chức tham gia vào nỗ lực chung này là:

  • Abby McGill, người đứng đầu các chiến dịch của tổ chức Diễn đàn quốc tế về quyền lao động, cũng chính là người khởi xướng vụ kiện này.
  • Các tổ chức phi chính phủ như: Nhóm nhân quyền Mỹ International Rights Advocates (IRA) đã đại diện cho các trẻ em trong vụ kiện, ngoài ra cũng đã và đang làm việc để nâng cao nhận thức về vấn đề lao động trẻ em trong ngành cacao.
  • Các nhà hoạt động và luật sư: tham gia vào việc xây dựng hồ sơ kiện, cung cấp bằng chứng và tư vấn pháp lý cho các gia đình trẻ em bị ảnh hưởng.
  • Các gia đình và cộng đồng nơi các trẻ em sống cũng đã hỗ trợ và cung cấp thông tin về tình trạng lao động trẻ em trong các đồn điền cacao.
  • Báo chí và phương tiện truyền thông: Các nhà báo đã đưa tin về vụ kiện, giúp tăng cường nhận thức công chúng và áp lực lên các tập đoàn lớn để họ có trách nhiệm hơn trong chuỗi cung ứng của mình.


Mặc dù vụ kiến này vẫn chưa tới hồi kết, tuy nhiên việc Nestle bị kiện đã góp phần làm nổi bật vấn đề nghiêm trọng về lao động trẻ em và thúc đẩy các cuộc thảo luận về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Sau vụ kiện, Nestlé đã cam kết thực hiện các biện pháp để cải thiện điều kiện lao động trong chuỗi cung ứng của mình và loại bỏ lao động trẻ em. Họ bắt đầu triển khai các chương trình giám sát và hợp tác với các tổ chức phi chính phủ để đảm bảo rằng quyền lợi của trẻ em được bảo vệ.


Từ đó có thể thấy được việc các cá nhân/tổ chức từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau cùng tham gia giải quyết 1 vấn đề về quy tắc xã hội có thể tạo ra những thay đổi tích cực như thế nào.

K6: Giảm nghèo

[GCED6-Lesson1.6] Lăng kính 2 - Tư duy Hệ thống: Phân tích các giải pháp giảm nghèo
Bài này có 4 MTB:
  • MTB 1.6.a: Hiểu rằng giải pháp cho vấn đề nghèo cần cân nhắc các nguyên nhân gây ra vấn đề
  • MTB 1.6.b: Hiểu rằng giải pháp cho vấn đề nghèo cũng cần hướng tới việc hạn chế, giảm thiểu ảnh hưởng hiện tại của vấn đề nghèo tới mọi người
  • MTB 1.6.c: Nhận biết một số giải pháp đang góp phần phá vỡ những vòng lặp duy trì tình trạng nghèo
  • MTB 1.6.d: Nhận biết những hạn chế/thiếu sót (vì chưa cân nhắc đầy đủ nguyên nhân dẫn tới vấn đề & bản thân vấn đề) của những giải pháp này



Để đạt 4 MTB này, thầy cô có thể (1) nói về việc giải pháp cho vấn đề nghèo sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không giải quyết được nguyên nhân A dẫn tới vấn đề, (2) nói về việc giải pháp cho vấn đề về nghèo sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không giảm thiểu được thực trạng của vấn đề, và (3) giới thiệu những giải pháp đã giải quyết được nguyên nhân dẫn tới vấn đề, hoặc giảm thiểu được thực trạng của vấn đề, và lợi ích cụ thể của những giải pháp này


Vậy bình luận về giải pháp như thế nào? Thầy cô có thể:

  • chọn trước một giải pháp X mà mình muốn giới thiệu cho HS, sau đó nói về việc giải pháp này đã giúp giải quyết nguyên nhân A nào (hoặc, đã giảm thiểu thực trạng vấn đề như thế nào), và giải pháp đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.
  • hoặc, chọn một vấn đề mà thầy cô nghĩ HS cần quan tâm, sau đó nói về nguyên nhân A gây ra vấn đề này, và đã có giải pháp X nào hướng tới nguyên nhân A này (hoặc nói về việc giải pháp X đã giảm thiểu thực trạng của vấn đề như thế nào), đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.


Giống như mọi giải pháp khác, giải pháp X mà thầy cô lấy làm ví dụ có thể sẽ không giải quyết được mọi nguyên nhân, hoặc giảm thiểu được triệt để thực trạng của vấn đề). Do đó, thầy cô nên dẫn dắt để HS hiểu rằng giải pháp vừa nêu sẽ không giải quyết được nguyên nhân B, C, v.v. ra sao, và có thể sẽ không giảm thiểu được thực trạng của vấn đề như thế nào. Làm vậy không phải để phủ nhận giải pháp X, mà để cho HS hiểu rằng để giải quyết triệt để vấn đề thì mọi người sẽ cần làm nhiều việc hơn là X.


Dưới đây là một ví dụ về giải pháp để thầy cô tham khảo:

Giải pháp Bình luận về giải pháp này
1. Quyên góp ủng hộ người nghèo Giải pháp này là gì? Làm được gì?

(GV có thể tham khảo bài viết "Ủng hộ và đóng góp Quỹ người nghèo: Sự sẻ chia và trách nhiệm" để bước đầu hiểu được giải pháp "Quyên góp ủng hộ người nghèo" có nghĩa là gì)


Cuộc sống của người nghèo, dù ở bất cứ đâu trên thế giới, cũng đều gặp phải khó khăn từ nhiều phía. Ví dụ như không đủ ăn, đủ mặc, điều kiện sống không được an toàn & đảm bảo vệ sinh, không có tiền để đi học, thường xuyên bị bệnh tật vây khốn, v.v. Để giúp người nghèo thoát khỏi tình trạng cùng cực đó nhanh nhất có thể, một biện pháp thường được áp dụng là "Quyên góp ủng hộ người nghèo". Các chương trình quyên góp này tương đối đa dạng về loại hình, như quyên góp tiền, quần áo, đồ ăn, hoặc quyên góp để tài trợ cho trẻ em nghèo được đi học.

  • Việc quyên góp hướng tới giải quyết:
  • Điều kiện sống cơ bản của người nghèo chưa được đảm bảo; bằng cách này người nghèo sẽ được hỗ trợ trực tiếp và nhanh nhất, từ đó có thể an tâm sinh sống hơn.
  • Nhiều người còn có thái độ bàng quan khi nghe về vấn đề "nghèo"; bằng cách này có thể khuyến khích sự gắn kết trong cộng đồng và tạo ra tinh thần đoàn kết. Người đóng góp có thể cảm thấy tự hào về việc giúp đỡ và kết nối với những người gặp khó khăn.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Mặc dù giải pháp này giúp người nghèo vượt qua được khó khăn trước mắt, nhưng nó lại đang không giải quyết một số nguyên nhân nổi bật của vấn đề là, người nghèo thường thiếu cơ hội & đầu ra, thiếu lựa chọn trong cuộc sống và cũng thường bị phân biệt đối xử bởi các tầng lớp xã hội khác, chưa kể các nguyên nhân từ tự nhiên và xã hội khác.

  • Có thể thấy giải pháp đã không giải quyết nguyên nhân rằng người nghèo có ít cơ hội trong cuộc sống. Thiếu cơ hội ở đây ám chỉ cơ hội về việc làm hay cơ hội được học tập đầy đủ. Việc thiếu 1 cơ hội nào đó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới chính khía cạnh đấy mà còn có ảnh hưởng qua lại các cơ hội khác trong cuộc sống (VD: Thiếu cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng, dẫn đến thiếu kỹ năng, hạn chế cơ hội việc làm). Việc không giải quyết không nhắc đến nguyên nhân thiếu cơ hội & đầu ra đồng nghĩa với việc không giải quyết rất nhiều khía cạnh có thể giúp 1 người thoát nghèo.
  • Một nguyên nhân khác cũng đang bị không giải quyết là người nghèo thường có ít lựa chọn, bao gồm lựa chọn nơi sống, học tập & làm việc, và chế độ dinh dưỡng, v.v. Chẳng hạn, người nghèo không có việc làm thu nhập cao nên buộc họ phải sống ở những khu vực giá cả thấp và thường thì môi trường xung quanh đó sẽ không đảm bảo vệ sinh hoặc dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Do đó, khi không giải quyết nguyên nhân là người nghèo thiếu sự lựa chọn, thì kể cả thực hiện quyên góp đồ dùng thường xuyên và hiệu quả như thế nào, cũng không thể thực sự giúp tình trạng nghèo được giải quyết triệt để. Việc quyên góp chỉ giống như đưa cho người nghèo "con cá", chứ không đưa cho họ "cần câu". Hệ quả là họ sẽ bị lệ thuộc vào các hoạt động quyên góp mà dần dần không muốn cố gắng thoát nghèo nữa. Điều đó cũng khiến cho những tầng lớp khác nhìn nhận người nghèo là lười biếng, và quay lưng lại với họ.


Như vậy, tuy giải pháp này giúp giải quyết vấn đề của người nghèo ngay tức thì, nhưng lại chưa thể giải quyết được hết tất cả các nguyên nhân dẫn tới vấn đề, nên vấn đề này vẫn sẽ xảy ra.

2. Xây dựng nhà ở xã hội Giải pháp này là gì? Làm được gì?

(GV có thể tham khảo bài viết "Nhà ở xã hội là gì? Ai được mua nhà ở xã hội?" để bước đầu hiểu được giải pháp "Xây dựng nhà ở xã hội" có nghĩa là gì)


Được sống trong một ngôi nhà kiên cố và an toàn khỏi những tác động từ môi trường xung quanh là một trong số những nhu cầu thiết yếu của con người. Tuy nhiên, đối với nhiều người, đây lại là một mơ ước xa vời. Hơn thế nữa, người nghèo thường không có nhiều lựa chọn về nơi sống, vì không có khả năng chi trả nên họ thường buộc phải sống ở những khu vực giá cả thấp và thường thì môi trường xung quanh đó sẽ không đảm bảo vệ sinh hoặc dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Thiếu nhà ở kiên cố và an toàn cũng ảnh hưởng tới đời sống vật chất và tinh thần, khiến người nghèo không thể yên tâm sản xuất lao động và học tập, dẫn tới việc họ khó có thể thoát nghèo.


Để giải quyết tình trạng này, có một giải pháp đang được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới là "Xây dựng nhà ở xã hội". Nhà ở xã hội hướng tới việc bán nhà chung cư giá rẻ cho người nghèo/thu nhập thấp. Giải pháp này tập trung giải quyết một số nguyên nhân là:

  • Giá cả (giá đất, giá xây dựng, giá mua nhà, v.v.) tăng theo thời gian khiến người nghèo mãi không thể sở hữu một ngôi nhà khang trang; bằng cách này người nghèo cũng có thể sở hữu nhà ở
  • Người nghèo thường không có nhiều lựa chọn chỗ ở và do đó thường phải sống ở những khu vực ô nhiễm hoặc dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai; bằng cách này người nghèo có thể yên tâm sinh sống và làm ăn để thoát nghèo.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Mặc dù giải pháp này giải quyết được nhiều nguyên nhân và mang lại nhiều lợi ích cho người nghèo, nó đang không giải quyết một số nguyên nhân quan trọng khác như người nghèo thường thiếu cơ hội & đầu ra trong cuộc sống.

  • Có thể thấy giải pháp chưa giải quyết nguyên được việc người nghèo chưa có nhiều cơ hội về việc làm hay cơ hội được học tập đầy đủ. Việc thiếu 1 cơ hội nào đó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới chính khía cạnh đấy mà còn có ảnh hưởng qua lại các cơ hội khác trong cuộc sống (VD: Thiếu cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng, dẫn đến thiếu kỹ năng, hạn chế cơ hội việc làm, dẫn tới thiếu cơ hội tích luỹ để mua nhà ở xã hội). Việc không giải quyết không nhắc đến nguyên nhân thiếu cơ hội & đầu ra đồng nghĩa với việc không giải quyết rất nhiều khía cạnh có thể giúp 1 người thoát nghèo.
  • Mặt khác, giải pháp này cũng không giải quyết vấn đề khác trong xã hội như bất bình đẳng, định kiến về người nghèo, xung đột và bất ổn, v.v. Việc không giải quyết các nguyên nhân này đồng nghĩa với việc không thể giúp người nghèo có được một môi trường ổn định để sinh sống, thì kể cả khi được sống trong những khu nhà xã hội, cuộc sống của họ vẫn không được đảm bảo. Ví dụ: Khi xây các khu nhà ở xã hội ở một khu vực thường hay có biểu tình, cuộc sống của người nghèo sẽ thường xuyên bị đình trệ, không thể ra ngoài tự do để đi kiếm việc làm hoặc khám chữa bệnh khi cần, tình trạng thiếu nước sạch và thực phẩm dinh dưỡng cũng sẽ xảy ra.


Như vậy, tuy giải pháp này giúp giải quyết vấn đề nhà ở của người nghèo, nhưng lại chưa thể giải quyết được hết tất cả các nguyên nhân dẫn tới vấn đề, nên vấn đề này vẫn sẽ xảy ra.

[GCED6-Lesson1.11] Lăng kính 5 - Cộng tác: Những cá nhân/tổ chức đang góp phần vào việc giảm nghèo trên thế giới
Bài này có 2 MTB:
  • MTB 1.11.a: Hiểu rằng cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau để cùng giúp mọi người thoát nghèo
  • MTB 1.11.b: Liệt kê một số nỗ lực cộng tác của các cá nhân/tổ chức trên thế giới để cùng giúp mọi người thoát nghèo

Để đạt được các MTB này, thầy cô có thể:

  • Chọn một vấn đề X mà thầy cô nghĩ rằng HS sẽ quan tâm, hoặc một vấn đề nào đó HS thường chưa biết tới, và có liên quan đến chủ đề "Giảm nghèo"
  • Làm rõ lí do vì sao cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau để cùng giúp người nghèo thoát nghèo, có cuộc sống tốt đẹp hơn
  • Sau đó, thầy cô có thể chọn nói về những nỗ lực cộng tác giữa:
    • Tổ chức A với tổ chức B: Có thể đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc các tổ chức nhỏ vốn hoạt động độc lập, tuy nhiên để giải quyết vấn đề X nên đang hoạt động cùng nhau. Hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia.
    • Tổ chức A với người dân: Không đề cập tới những trường hợp mà tổ chức A cho người dân gì đó một chiều, mà phải đề cập tới những mối quan hệ hai chiều. VD: cộng tác với chính quyền địa phương để cùng giúp người nghèo thoát nghèo, có cuộc sống tốt đẹp hơn
    • Hoặc giữa các cá nhân với nhau.


Mục đích của việc này là để HS hiểu rằng các vấn đề toàn cầu vô cùng phức tạp và không một nỗ lực nhỏ lẻ của từng cá nhân nào có thể giải quyết triệt để các vấn đề toàn cầu, mà cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức/bộ máy, đến từ nhiều lĩnh vực/xuất xứ khác nhau.


Lưu ý: ở khối lớp này, khả năng cao là HS chưa biết về tên và công việc của các tổ chức/cá nhân mà GV đề cập tới, hay phân biệt được đâu là các tổ chức thuộc chính phủ và phi chính phủ. GV cũng không cần giới thiệu quá nhiều thông tin phức tạp về các cá nhân/tổ chức vì có thể HS sẽ không hiểu được. Thay vào đó, GV chỉ nên tập trung nói về việc cá nhân/tổ chức này là ai, hay làm những việc gì, và công việc cụ thể của họ đối với việc giảm nghèo h là gì.


Dưới đây là ví dụ để thầy cô tham khảo:


Tại sao cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức từ nhiều lĩnh vực, chuyên ngành, xuất xứ khác nhau để cùng giúp người nghèo thoát nghèo, có cuộc sống tốt đẹp hơn

Ví dụ về một vấn đề cần sự cộng tác để giải quyết: Nghèo đa chiều

(GV có thể đọc thêm bài viết "Thế giới trước thách thức đói nghèo" để hiểu hơn những thách thức mà nghèo gây ra cho nhiều lĩnh vực khác nhau trên thế giới)


Tình trạng nghèo đói có thể bắt gặp ở bất cứ nơi đâu, ngay cả ở những quốc gia giàu có và có nhiều phúc lợi cho người dân thì tình trạng đói nghèo vẫn diễn ra. Thêm vào đó ranh giới nghèo rất mong manh, chẳng hạn đại dịch Covid-19 đã khiến nhiều người từ thu nhập trung bình rơi vào cảnh nghèo đói chỉ trong một thời gian ngắn. Điều này không chỉ gây khó khăn cho cá nhân và gia đình nghèo mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của toàn xã hội, dẫn đến giảm năng suất lao động và tăng chi phí cho chính phủ. Hơn nữa, tình trạng nghèo đói thường đi kèm với các vấn đề xã hội như tội phạm, bạo lực và bất ổn, làm trầm trọng thêm những thách thức mà các quốc gia phải đối mặt.


Trước những thách thức lớn lao này, một cá nhân không thể đơn độc giải quyết mọi vấn đề về tình trạng nghèo. Thứ nhất, nghèo đói thường là kết quả của nhiều yếu tố liên quan như thiếu giáo dục, y tế kém, thiếu cơ hội việc làm và điều kiện sống không đảm bảo. Những vấn đề này thường liên quan chặt chẽ với nhau, và việc giải quyết một khía cạnh mà không xem xét các yếu tố khác sẽ không mang lại hiệu quả bền vững. Thứ hai, giải quyết nghèo đói đòi hỏi hiểu biết sâu sắc về các vấn đề địa phương và toàn cầu. Một cá nhân khó có thể nắm bắt và phân tích đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến nghèo đói mà không có sự hỗ trợ từ các tổ chức và chuyên gia. Thứ ba, nghèo đói cũng thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa và xã hội. Việc thay đổi nhận thức và hành vi của cộng đồng đòi hỏi thời gian và nỗ lực tập thể. Thứ tư, một cá nhân thường không có đủ nguồn lực tài chính, kỹ năng và kiến thức cần thiết để giải quyết các vấn đề phức tạp liên quan đến nghèo đói, như phát triển kinh tế, giáo dục và y tế.


Do đó, để tình trạng nghèo được giải quyết triệt để thì cần có sự phối hợp giữa chính phủ, tổ chức phi chính phủ và cộng đồng. Chỉ khi các bên cùng nhau hành động, mới có thể tạo ra giải pháp hiệu quả và bền vững.


Đã có những nỗ lực cộng tác nào để giải quyết vấn đề? Những cá nhân/tổ chức tham gia vào nỗ lực đó là ai?

Ví dụ về một nỗ lực cộng tác: Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững

(GV có thể tham khảo bài báo "Chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam" để hiểu về khái niệm "giảm nghèo bền vững"; và xem video "Trái ngọt” từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững" để hiểu hơn về kết quả của "Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025" sau 3 năm thực hiện)


Để nghèo không còn là nỗi lo thì nhiều quốc gia cần hướng tới việc liên kết các tổ chức/cá nhân cùng chung tay giảm nghèo bền vững. Giảm nghèo bền vững có nghĩa là người dân thoát nghèo bền vững và không tái nghèo. Tại Việt Nam, một trong số những nỗ lực đã được triển khai là Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Đây là chương trình được thực hiện trên khắp cả nước, tập trung vào các khu vực còn nhiều khó khăn. Mục tiêu là hỗ trợ người nghèo tiếp cận các chính sách/dịch vụ hỗ trợ, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tới nay cuộc sống ở nhiều vùng nông thôn của cả nước đã được cải thiện rõ rệt, địa phương được hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội liên kết vùng, người dân cũng được hưởng điều kiện chăm sóc sức khỏe và giáo dục tốt hơn, v.v.


Một số cá nhân/tổ chức thường tham gia vào nỗ lực này như:

  • Chính phủ:  Đóng vai trò định hướng, ban hành các chính sách giảm nghèo, và điều phối chương trình trên cả nước.
  • Cơ quan địa phương: Tiếp nhận định hướng từ Chính phủ và triển khai các hoạt động cụ thể tại các tỉnh, thành phố, đảm bảo chính sách phù hợp với điều kiện địa phương. Một số địa phương đã thay đổi
  • Cộng đồng và người dân: Đối tượng trực tiếp của chương trình, sẽ tham gia vào các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của chương trình và đồng thời đóng góp ý kiến cho các cán bộ địa phương về quá trình triển khai thực tế của chương trình.
  • Doanh nghiệp và tổ chức phi chính phủ (NGO): Tham gia hỗ trợ nguồn lực, công nghệ và giải pháp sáng tạo nhằm thúc đẩy phát triển bền vững.

K7: Biến đổi khí hậu

[GCED7-Lesson1.6] Lăng kính 2 - Tư duy Hệ thống: Phân tích các giải pháp chống biến đổi khí hậu
Bài này có 4 MTB:
  • MTB 1.6.a: Hiểu rằng để ngăn chặn biến đổi khí hậu thì cần cân nhắc tất cả nguyên nhân gây ra vấn đề, và những yếu tố khác trong xã hội đang duy trì những nguyên nhân này
  • MTB 1.6.b: Hiểu nội dung & lợi ích của một số giải pháp nổi bật mà thế giới đã làm để ngăn chặn biến đổi khí hậu
  • MTB 1.6.c: Hiểu rằng các giải pháp ngăn chặn biến đổi khí hậu có thể có nhiều hạn chế/thiếu sót, dẫn tới những hậu quả không lường trước được
  • MTB 1.6.d: Dự đoán/xác đinh một số hạn chế/thiếu sót của một số giải pháp ngăn chặn biến đổi khí hậu trên thế giới, và giải thích những hạn chế/thiếu sót đó có thể gây ra hậu quả gì


Để đạt 4 MTB này, thầy cô có thể (1) nói về việc giải pháp chống biến đổi khí hậu sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không giải quyết được những nguyên nhân dẫn tới vấn đề, (2) nói về việc giải pháp chống biến đổi khí hậu sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không tác động được tới những yếu tố khác trong xã hội đang duy trì nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu, và (3) giới thiệu những giải pháp đã giải quyết được nguyên nhân dẫn tới vấn đề, hoặc tác động được tới những yếu tố khác trong xã hội, và lợi ích cụ thể của những giải pháp này.

Vậy bình luận về giải pháp như thế nào? Thầy cô có thể:

  • chọn trước một giải pháp X mà mình muốn giới thiệu cho HS, sau đó nói về việc giải pháp này đã giúp giải quyết nguyên nhân A nào (hoặc, đã giảm thiểu thực trạng vấn đề như thế nào), và giải pháp đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.
  • hoặc, chọn một vấn đề mà thầy cô nghĩ HS cần quan tâm, sau đó nói về nguyên nhân A gây ra vấn đề này, và đã có giải pháp X nào hướng tới nguyên nhân A này (hoặc nói về việc giải pháp X đã giảm thiểu thực trạng của vấn đề như thế nào), đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.


Giống như mọi giải pháp khác, giải pháp X mà thầy cô lấy làm ví dụ có thể sẽ không giải quyết được mọi nguyên nhân, hoặc giảm thiểu được triệt để thực trạng của vấn đề). Do đó, thầy cô nên dẫn dắt để HS hiểu rằng giải pháp vừa nêu sẽ không giải quyết được nguyên nhân B, C, v.v. ra sao, và có thể sẽ không giảm thiểu được thực trạng của vấn đề như thế nào. Làm vậy không phải để phủ nhận giải pháp X, mà để cho HS hiểu rằng để giải quyết triệt để vấn đề thì mọi người sẽ cần làm nhiều việc hơn là X.


Dưới đây là một ví dụ về giải pháp để thầy cô tham khảo:

Giải pháp Bình luận về giải pháp này
1. Thu gom rác thải nhựa để tái chế

GV có thể tham khảo slide mẫu từ PCT để minh họa cho HS. Slide được chia làm 2 phần:

  • Slide 1 - mind map nói về các nguyên nhân để dẫn tới tình trạng rác thải nhựa tồn tại trong môi trường nhiều năm không được xử lý triệt để, gây ra ô nhiễm môi trường.
  • Slide 2 - đưa ra 1 giải pháp đang thường được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới kèm theo phân tích về các lợi ích và các nguyên nhân vấn đề mà giải pháp đó chưa giải quyết được.
Giải pháp này là gì? Làm được gì?Rác thải nhựa là một trong số những tác nhân chính tạo ra ô nhiễm môi trường - một trong những nguyên nhân chính gây ra hiện tượng biến đổi khí hậu. Tình trạng rác thải nhựa tràn lan trong môi trường diễn ra như hiện nay ra là do nhiều yếu tố phức tạp, từ ý thức con người tới kinh tế-xã hội, đồng thời các nguyên nhân dẫn tới vấn đề thường có mối quan hệ phức tạp. (Tham khảo slide 1)


Hiện nay có một giải pháp khá phổ biến, tập trung vào việc ngăn chặn nguyên nhân gây ra vấn đề rác thải nhựa là "Thu gom rác thải nhựa". Giải pháp này tập trung vào việc giải quyết:

  • Vấn đề rác thải nhựa đang lan tràn trong môi trường; bằng cách này một lượng lớn rác thải nhựa sẽ được thu gom và xử lý, trả lại môi trường trong sạch cho con người. Từ đó hạn chế vấn đề ô nhiễm môi trường.
  • Nhiều người chưa quan tâm đến việc bảo vệ môi trường; bằng cách này có thể kêu gọi nhiều người cùng tham gia thu gom rác thải nhựa.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Mặc dù giải pháp này thực sự giúp ích cho việc hạn chế vấn đề ô nhiễm môi trường, tuy nhiên tình trạng biến đổi khí hậu vẫn đang diễn ra phức tạp bởi vì giải pháp này vẫn còn không giải quyết nhiều nguyên nhân quan trọng khác như: các nguyên nhân từ tự nhiên, khí nhà kính từ những hoạt động hệ thống của con người. Chẳng hạn, tuy không phải là nguyên nhân chủ yếu, nhưng việc không giải quyết các nguyên nhân tự nhiên gây ra biến đổi khí hậu như núi lửa phun trào hay nhiệt lượng từ mặt trời thay đổi trong khi con người gần như không thể thay đổi được. Đặc biệt, giải pháp này gần như không hạn chế được nhiều ảnh hưởng từ nguyên nhân khí nhà kính, trong khi đây lại là nguyên nhân chính dẫn tới biến đổi khí hậu.


Mặt khác, giải pháp này gần như chỉ hướng tới giải quyết hệ quả của việc rác thải nhựa tràn lan trong môi trường, chứ chưa thực sự động tới việc giải quyết các nguyên nhân khác. Chẳng hạn như:

  • Quảng cáo về các sản phẩm từ nhựa vẫn tràn lan trên mọi phương tiện thông tin đại chúng và giá các sản phẩm nhựa rẻ hơn các sản phẩm khác, điều này thu hút nhiều người mua sản phẩm nhựa.
  • Các nhà máy đang vận hành theo cách sản xuất hàng loạt để có nhiều lợi nhuận nhất có thể, khiến cho sản phẩm nhựa lúc nào cũng sẵn có.
  • Nhiều khu xử lý rác thải vẫn chưa có khả năng xử lý triệt để vấn đề rác thải nhựa, nhiều nơi vẫn dùng cách đốt hoặc chôn lấp, gây ra ô nhiễm môi trường. Như vậy, bản thân giải pháp thu gom đang có vấn đề vì chưa giải quyết được vấn đề chính mà nó hướng tới là khắc phục ảnh hưởng của biến đổi khí hậu thông qua việc giảm lượng rác thải nhựa trong môi trường.


Như vậy, tuy giải pháp này có thể phần nào xử lý được vấn đề rác thải nhựa, nhưng lại chưa thể giải quyết được hết tất cả các nguyên nhân dẫn tới vấn đề và các yếu tố tác động tới nguyên nhân, khiến vấn đề này trở nên trầm trọng hơn và khó để giải quyết triệt để.

[GCED7-Lesson1.10] Lăng kính 5 - Cộng tác: Những cá nhân/tổ chức đang góp phần vào việc chống biến đổi khí hậu trên thế giới
Bài này có 3 MTB:
  • MTB 1.10.a: Hiểu rằng các tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt trong việc ngăn chặn biến đổi khí hậu mà các cá nhân/tổ chức nhỏ lẻ không có được
  • MTB 1.10.b: Liệt kê một số nỗ lực cộng tác giữa các tổ chức lớn (hoặc giữa các tổ chức lớn và nhỏ) trên thế giới trong việc ngăn chặn biến đổi khí hậu
  • MTB 1.10.c: Mô tả sự tương tác giữa các tổ chức này


Để đạt được các MTB này, thầy cô có thể:

  • Chọn một vấn đề X mà thầy cô nghĩ rằng HS sẽ quan tâm, hoặc một vấn đề nào đó HS thường chưa biết tới, và có liên quan đến chủ đề "Biến đổi khí hậu"
  • Làm rõ lí do vì sao các tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt để giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu mà các cá nhân/tổ chức nhỏ lẻ không có được
  • Sau đó, thầy cô có thể yêu cầu HS tìm hiểu về những nỗ lực cộng tác giữa:
    • Tổ chức A với tổ chức B: Nên đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc các tổ chức nhỏ vốn hoạt động độc lập, tuy nhiên để giải quyết vấn đề X nên đang hoạt động cùng nhau. Hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia.
    • Tổ chức A với người dân: Nên đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia. Và không chỉ đề cập tới những trường hợp mà tổ chức A cho người dân gì đó một chiều, mà nên đề cập tới những mối quan hệ hai chiều. VD: cộng tác với chính quyền địa phương để cùng giúp đỡ một nhóm đối tượng X nào đó.


Mục đích của việc này là để HS hiểu rằng các vấn đề toàn cầu vô cùng phức tạp và có thể xảy ra ngay bên cạnh HS. Không một nỗ lực nhỏ lẻ của từng cá nhân nào có thể giải quyết triệt để các vấn đề toàn cầu, mà cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức/bộ máy, đến từ nhiều lĩnh vực/xuất xứ khác nhau. Đặc biệt, khi nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức lớn, những nỗ lực sẽ được chú ý và quan tâm nhiều hơn, cũng như phát triển mạnh hơn.


Dưới đây là ví dụ để thầy cô tham khảo:


Tại sao các tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt để giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu mà các cá nhân/tổ chức nhỏ lẻ không có được?

Ví dụ về một vấn đề cần sự cộng tác để giải quyết: Ý kiến & hành động của giới trẻ trong việc chống biến đổi khí hậu chưa được cân nhắc, và quan tâm đúng mức

(GV có thể đọc bài "Why youth climate change activism must be taken seriously" để hiểu rõ hơn về việc vì sao cần "lôi kéo" người trẻ vào cuộc nhiều hơn trong việc chống biến đổi khí hậu)


Tiếng nói của nhiều thành phân trong xã hội, đặc biệt là của giới trẻ về biến đổi khí hậu thường chưa được đánh giá đúng mức. Mặc dù thế hệ trẻ là những người bị ảnh hưởng nặng nề bởi vấn đề này và đang thể hiện sự quan tâm sâu sắc, nhưng ý kiến và đóng góp của họ thường không được lắng nghe trong các quyết định chính sách và diễn đàn toàn cầu. Việc thiếu sự tham gia và thừa nhận từ các nhà lãnh đạo có thể làm giảm sức mạnh của phong trào này, trong khi những giải pháp sáng tạo và tươi mới từ giới trẻ lại rất cần thiết để đối phó với thách thức lớn nhất của nhân loại.


Để tiếng nói của giới trẻ được lắng nghe nhiều hơn thì rất cần có sự hỗ trợ từ các tổ chức lớn, vì một số lí do sau. Thứ nhất, các tổ chức lớn có sức mạnh và uy tín, giúp nâng cao tiếng nói của giới trẻ trên các diễn đàn địa phương và trên thế giới. Sự hỗ trợ này có thể làm cho thông điệp của người trẻ được lắng nghe và xem xét nghiêm túc hơn. Thứ hai, nhiều bạn trẻ thiếu nguồn lực cần thiết để tổ chức các chiến dịch hoặc sự kiện. Các tổ chức lớn có khả năng cung cấp tài chính, công nghệ và kiến thức, giúp giới trẻ thực hiện các sáng kiến của họ. Thứ ba, các tổ chức lớn thường có kinh nghiệm và kiến thức sâu rộng về các vấn đề biến đổi khí hậu. Họ có thể hướng dẫn giới trẻ về cách phát triển và thực hiện các giải pháp bền vững và khả thi. Thứ tư, các tổ chức lớn có thể giúp giới trẻ kết nối với các mạng lưới rộng lớn hơn, từ các nhà lãnh đạo chính trị đến các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường. Điều này không chỉ mở rộng tầm ảnh hưởng mà còn tạo ra cơ hội học hỏi và hợp tác. Từ đó, người trẻ có thể có tác động mạnh mẽ hơn đến việc xây dựng chính sách nhờ việc được các tổ chức lớn giúp chuyển tải ý kiến và nhu cầu của giới trẻ đến các nhà hoạch định chính sách, thúc đẩy sự thay đổi tích cực.


Chính vì vậy, sự hỗ trợ từ các tổ chức lớn cho giới trẻ là cần thiết để thúc đẩy những thay đổi thực sự trong lĩnh vực biến đổi khí hậu.


Ví dụ về một nỗ lực cộng tác giữa các các cá nhân/tổ chức lớn và nhỏ trên thế giới để giải quyết vấn đề này là gì? và những cá nhân/tổ chức thường tham gia vào nỗ lực đó là ai?

Ví dụ về một nỗ lực cộng tác: Xây dựng mạng lưới thanh niên hoạt động trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu

(GV có thể đọc phần giới thiệu về "Mạng lưới thanh niên hành động vì khí hậu YNet Việt Nam" để hiểu rõ hơn về việc các tổ chức lớn đang hỗ trợ giới trẻ Việt Nam trong việc hiện thực hoá các ý tưởng của người trẻ để chống lại biến đổi khí hậu)


Để giúp người trẻ có thể được thoả chí đóng góp cho các nỗ lực chống biến đổi khí hậu, ở nhiều nơi trên thế giới các mô hình đàm luận mô phỏng các hội nghị toàn cầu hay các mạng lưới thanh niên đã được thành lập. Tại Việt Nam cũng có một nỗ lực tương tự. Vào năm 2020, dưới sự hỗ trợ của Bộ tài nguyên môi trường và Chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP), "Mạng lưới thanh niên hành động vì khí hậu YNet Việt Nam" (YNet) đã được thành lập và quy tụ được gần 20 tổ chức thành viên và hơn 100 tình nguyên viên trên toàn quốc.  Đóng vai trò dẫn dắt các bạn trẻ trên toàn quốc học tập và thảo luận các đóng góp thanh niên vào chính sách khí hậu cấp địa phương và quốc gia. Ngoài ra, YNet cũng là thành viên của các mạng lưới thanh niên khu vực như ASEAN Youth Advocate Networks. Trong những năm qua, YNet đã tổ chức nhiều khoá đào tạo và huấn luyện về các kiến thức về vấn đề biến đổi khí hậu, tổ chức các chương trình lớn như Giả lập hội nghị Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu - MOCK COP, hay Hội nghị Thanh niên Việt Nam về Biến đổi Khí hậu - LCOY Việt Nam thu hút sự tham gia của hàng nghìn thanh niên trên cả nước.


Đây là một ví dụ về việc tổ chức lớn trong (Bộ tài nguyên môi trường) và ngoài nước (UNDP), có nhiều tiếng nói và kinh nghiệm trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu đã đã tạo điều kiện cho giới trẻ đóng góp sức mình vào quá trình xây dựng và thực hiện các giải pháp bền vững.


Cụ thể một số cá nhân/tổ chức tham gia vào nỗ lực này gồm:

  • Chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP): Là một cơ quan của Liên hợp quốc. Nhiệm vụ của họ là hỗ trợ các quốc gia trong việc xây dựng năng lực và thực hiện các chính sách bền vững về môi trường, đồng thời tạo điều kiện cho giới trẻ tham gia vào quá trình này.
  • Bộ Tài nguyên và Môi trường: Cơ quan chính phủ này cung cấp chính sách và khung pháp lý cho các hoạt động bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu, hỗ trợ YNet trong việc thúc đẩy sự tham gia của thanh niên.
  • Các chuyên gia và nhà nghiên cứu: Các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường và biến đổi khí hậu thường tham gia vào các khóa đào tạo và sự kiện do YNet tổ chức, cung cấp kiến thức và hướng dẫn cho các bạn trẻ.
  • Các tổ chức/mạng lưới thanh niên quốc tế: kết nối và thúc đẩy các cơ hội giao lưu giữa thanh niên Việt Nam và thanh niên quốc tế.
  • Thanh niên Việt Nam: là đối tượng chính và là động lực cho các hoạt động của YNet. Họ không chỉ là những người tham gia mà còn là những người sáng tạo và đưa ra ý tưởng mới để xây dựng mạng lưới thanh niên Việt Nam hoạt động mạnh mẽ trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu.

K8: Bất bình đẳng xã hội

[GCED8-Lesson1.5] Lăng kính 2 - Tư duy Hệ thống: Phân tích các giải pháp cho vấn đề bất bình đẳng trên thế giới
Bài này có 4 MTB:
  • MTB 1.5.a: Hiểu rằng các giải pháp về bất bình đẳng cần (1) bảo đảm con người có nhiều cơ hội trong cuộc sống, và (2) bảo đảm đầu ra của con người ở một mức độ nào đó
  • MTB 1.5.b: Nhận biết nội dung & lợi ích của một số giải pháp nổi bật mà thế giới đã làm để ngăn chặn bất bình đẳng & giảm thiểu ảnh hưởng của bất bình đẳng
  • MTB 1.5.c: Hiểu rằng giải pháp cho bất bình đẳng có thể có nhiều hạn chế/thiếu sót, dẫn tới những hậu quả không lường trước được
  • MTB 1.5.d: Dự đoán/xác đinh một số hạn chế/thiếu sót của một số giải pháp trên thế giới về bất bình đẳng, và giải thích những hạn chế/thiếu sót đó có thể gây ra hậu quả gì


Để đạt 4 MTB này, thầy cô có thể (1) nói về việc giải pháp cho vấn đề bất bình đẳng sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không giải quyết được những nguyên nhân dẫn tới vấn đề, (2) nói về việc giải pháp cho vấn đề bất bình đẳng sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không tác động được tới những yếu tố khác trong xã hội đang duy trì nguyên nhân gây ra bất bình đẳng, và (3) giới thiệu những giải pháp đã giải quyết được nguyên nhân dẫn tới vấn đề, hoặc tác động được tới những yếu tố khác trong xã hội, và lợi ích cụ thể của những giải pháp này.

Vậy bình luận về giải pháp như thế nào? Thầy cô có thể:

  • chọn trước một giải pháp X mà mình muốn giới thiệu cho HS, sau đó nói về việc giải pháp này đã giúp giải quyết nguyên nhân A nào (hoặc, đã giảm thiểu thực trạng vấn đề như thế nào), và giải pháp đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.
  • hoặc, chọn một vấn đề mà thầy cô nghĩ HS cần quan tâm, sau đó nói về nguyên nhân A gây ra vấn đề này, và đã có giải pháp X nào hướng tới nguyên nhân A này (hoặc nói về việc giải pháp X đã giảm thiểu thực trạng của vấn đề như thế nào), đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.


Giống như mọi giải pháp khác, giải pháp X mà thầy cô lấy làm ví dụ có thể sẽ không giải quyết được mọi nguyên nhân, hoặc giảm thiểu được triệt để thực trạng của vấn đề). Do đó, thầy cô nên dẫn dắt để HS hiểu rằng giải pháp vừa nêu sẽ không giải quyết được nguyên nhân B, C, v.v. ra sao, và có thể sẽ không giảm thiểu được thực trạng của vấn đề như thế nào. Làm vậy không phải để phủ nhận giải pháp X, mà để cho HS hiểu rằng để giải quyết triệt để vấn đề thì mọi người sẽ cần làm nhiều việc hơn là X.


Dưới đây là một ví dụ về giải pháp để thầy cô tham khảo:

Giải pháp Bình luận về giải pháp này
1. Mở rộng cơ hội học các ngành STEM cho nữ giới

GV có thể tham khảo slide mẫu từ PCT để minh họa cho HS. Slide được chia làm 2 phần:

  • Slide 1 - mind map nói về các nguyên nhân để dẫn tới 1 vấn đề cụ thể thuộc chủ đề "Bất bình đẳng xã hội", ở đây là việc nữ giới ít có cơ hội hoc tập và làm việc trong lĩnh vực STEM.
  • Slide 2 - đưa ra 1 giải pháp đang thường được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới kèm theo phân tích về các lợi ích và các nguyên nhân vấn đề mà giải pháp đó chưa giải quyết được.
Giải pháp này là gì? Làm được gì?

(GV có thể tham khảo bài viết "Khởi động học bổng khối ngành STEM dành cho nữ giới từ Vương quốc Anh" để bước đầu hiểu được giải pháp "Mở rộng cơ hội học các ngành STEM cho nữ giới" có nghĩa là gì)


Việc nữ giới ít được tiếp cận với STEM là do nhiều yếu tố phức tạp, từ định kiến xã hội đến chính sách, đồng thời các nguyên nhân dẫn tới vấn đề thường có mối quan hệ phức tạp. Để giải quyết vấn đề này, cần có sự phối hợp của nhiều bên, từ gia đình, nhà trường, đến xã hội và chính phủ. Một trong số những biện pháp thường được áp dụng là "Mở rộng cơ hội học các ngành STEM cho nữ giới". Việc đầu tư vào giáo dục STEM cho nữ giới không chỉ giúp tăng cường bình đẳng giới mà còn đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Giải pháp này đã giải quyết được một số nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bằng cách:

  • Tháo gỡ định kiến xã hội: Các chương trình đào tạo STEM cho nữ giới sẽ giúp thúc đẩy thay đổi quan niệm truyền thống về vai trò của nam và nữ trong gia đình và xã hội, khuyến khích các em gái tin vào khả năng của mình trong lĩnh vực khoa học, công nghệ.
  • Nâng cao chất lượng giảng dạy: Các chương trình đào tạo STEM sẽ tập trung vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy, tạo ra các môi trường học tập hấp dẫn, tương tác, giúp các em gái yêu thích các môn học STEM.
  • Một số nơi còn cung cấp học bổng và các gói hỗ trợ tài chính, bằng cách này sẽ giúp giảm bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình có con gái muốn theo đuổi STEM, đặc biệt là các gia đình có hoàn cảnh khó khăn.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Tuy giải pháp này đã giúp nhiều nữ sinh được tiếp cận với giáo dục STEM, nhưng vẫn con một số nguyên nhân chưa được giải quyết:

  • Định kiến xã hội về vai trò truyền thống của nam - nữ. Về định kiến xã hội, nữ giới thường phải gánh vác nhiều trách nhiệm gia đình, điều này gây khó khăn cho việc duy trì sự nghiệp lâu dài trong STEM. Nhưng vấn đề này lại rất khó để thay đổi trong thời gian ngắn, và đòi hỏi sự chung tay của tất cả các ngành, lĩnh vực. Nếu không thể giải quyết nguyên nhân này, thì nó sẽ dẫn tới những nguyên nhân khác như là "thiếu sự hỗ trợ từ gia đình", kết quả là việc đào tạo STEM cho nữ sinh sẽ càng khó khăn hơn.
  • Hoặc nguyên nhân khác là "áp lực kinh tế", thì giải pháp này gần như chưa giải quyết được. Việc học STEM nhiều lúc cần phải có trang thiết bị hiện đại, điều này là áp lực rất lớn cho một gia đình bình thường nếu muốn cho con theo đuổi lâu dài. Kể cả khi các khoá học có cung cấp học bổng cho nữ sinh, thì cũng rất cạnh tranh. Do đó, đây vẫn là rào cản khó gỡ.
  • Ngoài ra, thực tế cũng cho thấy giải pháp này còn thiếu sự liên kết giữa đào tạo và đầu ra: Các chương trình đào tạo STEM thường tập trung vào giai đoạn học sinh, sinh viên, chưa tạo ra một hệ thống liên kết chặt chẽ giữa giáo dục, doanh nghiệp và xã hội để hỗ trợ nữ giới sau khi tốt nghiệp. Thiếu đầu ra do nhà tuyển dụng vẫn ưu tiên tuyển nam giới hơn là một trong những lí do chính khiến cho các gia đình và bản thân nữ sinh bị chùn bước trong việc theo đuổi STEM. Ngay cả khi nữ giới đã tốt nghiệp và có việc làm trong lĩnh vực STEM, họ vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn như phân biệt đối xử, quấy rối tình dục, cơ hội thăng tiến hạn chế.


Tóm lại, việc đào tạo STEM cho nữ giới là một quá trình lâu dài và đòi hỏi sự nỗ lực của cả xã hội. Bên cạnh việc cung cấp kiến thức và kỹ năng, cần quan tâm đến việc tạo ra một môi trường thuận lợi, hỗ trợ nữ giới phát triển toàn diện. Tuy nhiên, vì tập trung giải quyết thực trạng và chỉ một số nguyên nhân thay vì nhiều nguyên nhân khác dẫn tới vấn đề bất bình đẳng giới, nên vấn đề này vẫn sẽ xảy ra.

[GCED8-Lesson1.9] Lăng kính 5 - Cộng tác: Những cá nhân/tổ chức đang góp phần vào việc xóa bỏ bất bình đẳng trên thế giới
Bài này có 3 MTB:
  • MTB 1.9.a: Hiểu rằng các tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt để giải quyết các vấn đề về bất bình đẳng mà các cá nhân/tổ chức nhỏ lẻ không có được
  • MTB 1.9.b: Liệt kê một số nỗ lực cộng tác giữa các tổ chức lớn (hoặc giữa các tổ chức lớn và nhỏ) trên thế giới để giải quyết các vấn đề về bất bình đẳng
  • MTB 1.9.c: Mô tả sự tương tác giữa các tổ chức này


Để đạt được các MTB này, thầy cô có thể:

  • Chọn một vấn đề X mà thầy cô nghĩ rằng HS sẽ quan tâm, hoặc một vấn đề nào đó HS thường chưa biết tới, và có liên quan đến chủ đề "Bất bình đẳng xã hội",
  • Làm rõ lí do vì sao các tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt để giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu mà các cá nhân/tổ chức nhỏ lẻ không có được
  • Sau đó, thầy cô có thể yêu cầu HS tìm hiểu về những nỗ lực cộng tác giữa:
    • Tổ chức A với tổ chức B: Nên đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc các tổ chức nhỏ vốn hoạt động độc lập, tuy nhiên để giải quyết vấn đề X nên đang hoạt động cùng nhau. Hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia.
    • Tổ chức A với người dân: Nên đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia. Không chỉ đề cập tới những trường hợp mà tổ chức A cho người dân gì đó một chiều, mà nên đề cập tới những mối quan hệ hai chiều. VD: cộng tác với chính quyền địa phương để cùng giúp đỡ một nhóm đối tượng X nào đó.


Mục đích của việc này là để HS hiểu rằng các vấn đề toàn cầu vô cùng phức tạp và có thể xảy ra ngay bên cạnh HS. Không một nỗ lực nhỏ lẻ của từng cá nhân nào có thể giải quyết triệt để các vấn đề toàn cầu, mà cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức/bộ máy, đến từ nhiều lĩnh vực/xuất xứ khác nhau. Đặc biệt, khi nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức lớn, những nỗ lực sẽ được chú ý và quan tâm nhiều hơn, cũng như phát triển mạnh hơn.


Dưới đây là ví dụ để thầy cô tham khảo:


Tại sao các tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt để giải quyết các vấn đề về bất bình đẳng xã hội mà các cá nhân/tổ chức nhỏ lẻ không có được?

Ví dụ về một vấn đề cần sự cộng tác để giải quyết: Phụ nữ không có cơ hội thăng tiến trong công việc vì bị phân biệt đối xử về ngoại hình & tính cách

(GV có thể đọc trang Wiki về vụ kiện "Price Waterhouse v. Hopkins", hoặc đọc bài viết khác về vụ kiện này để hiểu thêm về việc một tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói như Tòa án Tối cao Hoa Kỳ sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt để giải quyết vấn đề như thế nào)


Tóm tắt:

  • Ann Hopkins bắt đầu làm quản lý dự án tại công ty kiểm toán Price Waterhouse(giờ là PricewaterhouseCoopers, hay PwC, một trong 4 công ty kiểm toán hàng đầu thế giới) vào năm 1978. Sau nhiều năm thành công trong công việc, Hopkins cho rằng bà đã bị từ chối cơ hội thăng tiếng làm Giám đốc (partner) tại công ty trong 2 năm liên tiếp vì không tuân thủ các khuôn mẫu về hành động và ngoại hình của một phụ nữ. Các đồng nghiệp cho rằng bà là một người hung hăng, hay ăn nói thô tục, hạch sách và thiếu kiên nhẫn với các nhân viên khác. Một giám đốc khác của công ty từng đánh giá Hopkins rằng bà cần học cách trở nên "quyến rũ hơn".
  • Sau khi việc thăng chức của bà bị hoãn lại trong năm đầu tiên, Hopkins đã gặp trưởng phòng mình, Thomas Beyer, và ông đã nói với bà rằng để tăng cơ hội thăng chức, bà cần "tỏ ra nữ tính hơn trong việc đi lại, nói chuyện, ăn mặc, trang điểm, chọn kiểu tóc và đồ trang sức". Hopkins đủ điều kiện để làm Giám đốc và thường vượt trội hơn các đồng nghiệp nam của mình. Nhiều nhân viên nam cho biết họ sẽ không thoải mái khi bà ấy được làm Giám đốc vì bà ấy không cư xử theo hình mẫu phụ nữ của họ.
  • Sau đó, Hopkins đã đâm đơn kiện PwC, và Tòa án Tối cao Hoa Kỳ cho rằng PwC đã phân biệt đối xử với Hopkins trên cơ sở là "giới tính", vi phạm Đề mục VII thuộc Đạo luật Dân quyền năm 1964. Tòa cho rằng Đề mục VII không chỉ cấm việc phân biệt đối xử dựa trên giới tính lúc sinh ra, mà còn cấm cả những hành vi phân biệt đối xử dựa trên khuôn mẫu giới (gender stereotype). Nói cách khác, PwC không được phép đối xử với các nhân viên theo những cách khác nhau vì giới tính của họ, và cũng không được đối xử theo những cách khác nhau chỉ vì họ không tuân theo khuôn mẫu nào đó của PwC.


Đây là một ví dụ để minh họa cho việc một tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói (Tòa án Tối cao Hoa Kỳ) sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt để giải quyết vấn đề như thế nào. Cụ thể hơn, phán quyết của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ với vụ kiện "Price Waterhouse v. Hopkins" đã tạo tiền lệ cho các vụ kiện chống lại phân biệt đối xử dựa trên khuôn mẫu giới sau này, giúp các nạn nhân của việc phân biệt đối xử tại Mỹ đòi lại công bằng cho mình. Đồng thời, định nghĩa về việc "phân biệt đối xử dựa trên khuôn mẫu giới" đã được mở rộng cho cả những đối tượng khác thuộc cộng đồng LGBTQ, không chỉ giới hạn ở phụ nữ/đàn ông. Có thể nói rằng nếu không có phán quyết này của Tòa án Tối cao Hoa kỳ, phụ nữ, hay những người không tuân theo khuôn mẫu giới sẽ vẫn chịu cảnh phân biệt đối xử ở chỗ làm, và điều này sẽ ảnh hưởng không chỉ tới cơ hội thăng tiến, mà còn là những cơ hội khác trong cuộc sống.


Đã có những nỗ lực cộng tác nào để giải quyết vấn đề? Những cá nhân/tổ chức tham gia vào nỗ lực đó là ai?

Ví dụ về một nỗ lực cộng tác: Kiến tạo môi trường sống thân thiện với người khuyết tật ở Việt Nam

(GV có thể xem video "Thiếu hạ tầng cho người khuyết tật tại các đô thị" để hiểu tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận các công trình và dịch vụ xã hội xảy ra trong cuộc sống của người khuyết tật)


So với người bình thường, cuộc sống của người khuyết tật gặp phải rất nhiều khó khăn và thách thức. Họ phải đối mặt với những trở ngại từ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày như đi chợ, sử dụng phương tiện công cộng, cho đến việc tìm kiếm một công việc ổn định để có thể tự nuôi sống bản thân. Mà trong đó, cản trở từ phía các công trình công cộng và hạ tầng giao thông là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng cuộc sống người khuyết tật. Chẳng hạn như:

  • Khi các công trình thiếu những cơ sở vật chất cần thiết, như đường dốc, thang máy, hay biển báo bằng chữ nổi sẽ làm cho người khuyết tật không thể tiếp cận các dịch vụ công cộng như trường học, bệnh viện, hay các trung tâm thương mại. Khi không thể tiếp cận, họ bị tước đoạt quyền được hưởng các dịch vụ thiết yếu, dẫn đến sự cách biệt trong chất lượng cuộc sống so với người không khuyết tật.
  • Nhiều người khuyết tật gặp khó khăn trong việc đến nơi làm việc hoặc tham gia vào môi trường làm việc do hạ tầng không phù hợp. Hệ quả là, họ có thể bị gạt ra ngoài thị trường lao động, dẫn đến tình trạng thất nghiệp và khó khăn trong việc tự nuôi sống bản thân.
  • Thiếu các công trình thân thiện có thể tạo ra một xã hội mà người khuyết tật bị xem là "khác biệt." Họ có thể phải đối mặt với sự kỳ thị từ cộng đồng, từ việc bị thiếu tôn trọng đến việc không được chào đón trong các không gian công cộng. Điều này có thể dẫn đến tình trạng cô lập xã hội, làm giảm cơ hội giao lưu và kết nối với người khác, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý và sức khỏe tinh thần của họ.


Trước tình hình đó, nhiều nỗ lực từ chính phủ, cộng đồng, và các tổ chức xã hội đã được triển khai nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người khuyết tật, giúp họ có nhiều quyền tiếp cận và cơ hội hơn trong cuộc sống. Một trong những nỗ lực đáng chú ý là việc xây dựng các công trình công cộng thân thiện với người khuyết tật, tạo điều kiện cho họ dễ dàng hòa nhập với xã hội. Các công trình này bao gồm hệ thống đường dốc cho xe lăn tại các trung tâm thương mại, thang máy với các nút bấm bằng chữ nổi Braille, xe buýt có sàn thấp để thuận tiện cho việc di chuyển, và cả những không gian công cộng có nhà vệ sinh dành riêng cho người khuyết tật. Những sáng kiến này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự bình đẳng và cơ hội cho mọi người, không phân biệt khả năng thể chất.


Để có thể xây dựng những hệ thống công trình thân thiện với người khuyết tật, cần có sự tham gia phối hợp của nhiều bên, bao gồm cả các tổ chức lớn và cơ quan nhà nước. Ví dụ như:

  • Nhà nước (cụ thể là Bộ Xây dựng): Đưa ra các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật rõ ràng về thiết kế công trình công cộng, nhằm đảm bảo rằng mọi hạng mục xây dựng mới đều đáp ứng yêu cầu tiếp cận cho người khuyết tật.
  • Các công ty xây dựng: Đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện và áp dụng các tiêu chuẩn này vào thực tế. Chịu trách nhiệm thi công và thực hiện các quy định của nhà nước về xây dựng, bảo đảm rằng các công trình mà họ thiết kế và thi công tuân thủ đầy đủ các quy định về hạ tầng tiếp cận.
  • Các tổ chức xã hội và phi chính phủ (NGOs): Đóng góp bằng cách thúc đẩy nhận thức cộng đồng, vận động cho các quyền lợi của người khuyết tật, và làm cầu nối giữa nhà nước, doanh nghiệp và người khuyết tật. Các tổ chức này cũng có thể cung cấp hỗ trợ tài chính hoặc tư vấn về cách thiết kế các công trình thân thiện hơn với người khuyết tật.
  • Cộng đồng & các phương tiện truyền thông: Hỗ trợ người khuyết tật, đồng thời báo cáo, lên tiếng về những trường hợp thiếu hỗ trợ hoặc không tôn trọng quyền lợi của người khuyết tật.
  • Các phong trào, dự án thiết kế công trình dành cho người khuyết tật

K9: Sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững

[GCED9-Lesson1.6] Lăng kính 2 - Tư duy Hệ thống: Phân tích các giải pháp cho vấn đề sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững trên thế giới
Bài này có 4 MTB:
  • MTB 1.6.a: Hiểu rằng các giải pháp cho việc sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững cần cân nhắc trách nhiệm của các bên liên quan đối với vấn đề
  • MTB 1.6.b: Hiểu nội dung & lợi ích của một số giải pháp nổi bật mà thế giới đã làm để hạn chế tình trạng sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững
  • MTB 1.6.c: Hiểu rằng giải pháp cho việc sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững có thể có nhiều hạn chế/thiếu sót, dẫn tới những hậu quả không lường trước được
  • MTB 1.6.d: Dự đoán/xác đinh một số hạn chế/thiếu sót của một số giải pháp trên thế giới cho việc sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững, và giải thích những hạn chế/thiếu sót đó có thể gây ra hậu quả gì


Để đạt 4 MTB này, thầy cô có thể (1) nói về việc giải pháp cho vấn đề sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không giải quyết được những nguyên nhân dẫn tới vấn đề, (2) nói về việc giải pháp cho vấn đề sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không tác động được tới những yếu tố khác trong xã hội đang duy trì nguyên nhân gây ra vấn đề, và (3) giới thiệu những giải pháp đã giải quyết được nguyên nhân dẫn tới vấn đề, hoặc tác động được tới những yếu tố khác trong xã hội, và lợi ích cụ thể của những giải pháp này.

Vậy bình luận về giải pháp như thế nào? Thầy cô có thể:

  • chọn trước một giải pháp X mà mình muốn giới thiệu cho HS, sau đó nói về việc giải pháp này đã giúp giải quyết nguyên nhân A nào (hoặc, đã giảm thiểu thực trạng vấn đề như thế nào), và giải pháp đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.
  • hoặc, chọn một vấn đề mà thầy cô nghĩ HS cần quan tâm, sau đó nói về nguyên nhân A gây ra vấn đề này, và đã có giải pháp X nào hướng tới nguyên nhân A này (hoặc nói về việc giải pháp X đã giảm thiểu thực trạng của vấn đề như thế nào), đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.


Giống như mọi giải pháp khác, giải pháp X mà thầy cô lấy làm ví dụ có thể sẽ không giải quyết được mọi nguyên nhân, hoặc giảm thiểu được triệt để thực trạng của vấn đề). Do đó, thầy cô nên dẫn dắt để HS hiểu rằng giải pháp vừa nêu sẽ không giải quyết được nguyên nhân B, C, v.v. ra sao, và có thể sẽ không giảm thiểu được thực trạng của vấn đề như thế nào. Làm vậy không phải để phủ nhận giải pháp X, mà để cho HS hiểu rằng để giải quyết triệt để vấn đề thì mọi người sẽ cần làm nhiều việc hơn là X.


Dưới đây là một ví dụ về giải pháp để thầy cô tham khảo:

Giải pháp Bình luận về giải pháp này
1. Kinh doanh quần áo cũ

GV có thể tham khảo slide mẫu từ PCT để minh họa cho HS. Slide được chia làm 2 phần:

  • Slide 1 - mind map nói về các nguyên nhân dẫn tới tình trạng sản xuất dư thừa trong ngành thời trang.
  • Slide 2 - đưa ra 1 giải pháp đang thường được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới kèm theo phân tích về các lợi ích và các nguyên nhân vấn đề mà giải pháp đó chưa giải quyết được.
Giải pháp này là gì? Làm được gì?(GV có thể tham khảo bài viết "Sự phát triển của thị trường secondhand: Thói quen mua sắm thay đổi, chủ nghĩa tiết kiệm lên ngôi" để bước đầu hiểu được giải pháp "Kinh doanh quần áo cũ" có nghĩa là gì)

Tình trạng sản xuất & tiêu dùng thiếu bền vững xảy ra ở rất nhiều lĩnh vực kinh tế, và trong đó có thời trang nhanh. Thời trang nhanh đã kéo theo nhiều vấn đề như rác thải, ô nhiễm môi trường, bóc lột lao động, v.v. Vấn đề này xảy ra là do nhiều yếu tố phức tạp, từ ý thức cá nhân tới công nghệ và chính sách, đồng thời các nguyên nhân dẫn tới vấn đề thường có mối quan hệ phức tạp.


Một giải pháp thường được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới là "Kinh doanh quần áo cũ". Giải pháp này đã giúp giải quyết một số nguyên nhân và thực trạng của vấn đề sản xuất & tiêu thụ thời trang thiếu bền vững như:

  • Giảm thiểu lượng rác thải thời trang: Bằng cách tái sử dụng quần áo, đồ dùng đã qua sử dụng, việc mở cửa hàng quần áo cũ góp phần giảm thiểu đáng kể lượng rác thải xả ra môi trường.
  • Giảm nhu cầu sản xuất hàng mới: Khi có nhiều lựa chọn mua quần áo cũ, nhu cầu sản xuất hàng mới sẽ giảm đi, từ đó góp phần giảm áp lực lên tài nguyên thiên nhiên và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
  • Đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng: Quần áo cũ hường có kiểu dáng, mẫu mã đa dạng và giá cả phải chăng hơn, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng, đặc biệt là những người có thu nhập thấp hoặc quan tâm đến thời trang bền vững.
  • Tăng cường ý thức bảo vệ môi trường: Việc mua sắm quần áo cũ khuyến khích người tiêu dùng thay đổi thói quen tiêu dùng, hướng đến lối sống bền vững hơn.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Tuy nhiên giải pháp còn bỏ qua một số nguyên nhân và thực trạng của vấn đề này là:

  • Cần có sự thay đổi nhận thức của người tiêu dùng: Để việc mua sắm quần áo cũ trở nên phổ biến hơn, cần phải thay đổi nhận thức của người tiêu dùng về giá trị của đồ cũ và khuyến khích họ lựa chọn các sản phẩm bền vững. Nhu cầu về hàng mới: Dù có thị trường quần áo cũ phát triển, nhu cầu về sản phẩm mới, độc đáo, theo xu hướng vẫn luôn tồn tại, đặc biệt là trong các phân khúc thị trường cao cấp. Vẫn còn tâm lý thích đồ mới: Nhiều người tiêu dùng vẫn ưu tiên mua đồ mới thay vì đồ cũ, do tâm lý thích đồ mới, độc đáo hoặc lo ngại về chất lượng.
  • Chất lượng sản phẩm không đồng đều: Không phải tất cả quần áo cũ đều có chất lượng tốt, việc lựa chọn sản phẩm phù hợp đòi hỏi người mua phải có kinh nghiệm và kiến thức nhất định. Chưa kể, quần áo cũ có thể chứa vi khuẩn, nấm mốc nếu không được vệ sinh kỹ lưỡng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng.
  • Thiếu quy trình sản xuất bền vững: Mặc dù giảm thiểu sản xuất hàng mới, nhưng việc thu gom, phân loại và xử lý quần áo cũ cũng cần có quy trình sản xuất bền vững để đảm bảo hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường.
  • Chưa giải quyết được vấn đề bất bình đẳng xã hội: Việc kinh doanh quần áo cũ không thể giải quyết triệt để vấn đề bất bình đẳng xã hội, đặc biệt là trong ngành thời trang nhanh, nơi mà lao động giá rẻ vẫn là vấn đề nan giải.


Việc đẩy mạnh việc kinh doanh quần áo cũ là một giải pháp hữu hiệu để giảm thiểu tác động tiêu cực của ngành thời trang lên môi trường. Tuy nhiên, vì tập trung giải quyết thực trạng và chỉ một số nguyên nhân thay vì nhiều nguyên nhân khác dẫn tới vấn đề về sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững, nên vấn đề này vẫn sẽ xảy ra.

[GCED9-Lesson1.10] Lăng kính 5 - Cộng tác: Những cá nhân/tổ chức đang góp phần vào việc giải quyết vấn đề sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững trên thế giới
Bài này có 3 MTB:
  • MTB 1.10.a: Hiểu rằng các tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt để hạn chế tình trạng sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững mà các cá nhân/tổ chức nhỏ lẻ không có được
  • MTB 1.10.b: Liệt kê một số nỗ lực cộng tác giữa các tổ chức lớn (hoặc giữa các tổ chức lớn và nhỏ) trên thế giới để hạn chế tình trạng sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững
  • MTB 1.10.c: Mô tả sự tương tác giữa các tổ chức này


Để đạt được các MTB này, thầy cô có thể:

  • Chọn một vấn đề X mà thầy cô nghĩ rằng HS sẽ quan tâm, hoặc một vấn đề nào đó HS thường chưa biết tới, và có liên quan đến chủ đề "Sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững",
  • Làm rõ lí do vì sao các tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt để giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu mà các cá nhân/tổ chức nhỏ lẻ không có được
  • Sau đó, thầy cô có thể yêu cầu HS tìm hiểu về những nỗ lực cộng tác giữa:
  • Tổ chức A với tổ chức B: Nên đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc các tổ chức nhỏ vốn hoạt động độc lập, tuy nhiên để giải quyết vấn đề X nên đang hoạt động cùng nhau. Hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia.
  • Tổ chức A với người dân: Nên đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia. Không chỉ đề cập tới những trường hợp mà tổ chức A cho người dân gì đó một chiều, mà nên đề cập tới những mối quan hệ hai chiều. VD: cộng tác với chính quyền địa phương để cùng giúp đỡ một nhóm đối tượng X nào đó.


Mục đích của việc này là để HS hiểu rằng các vấn đề toàn cầu vô cùng phức tạp và có thể xảy ra ngay bên cạnh HS. Không một nỗ lực nhỏ lẻ của từng cá nhân nào có thể giải quyết triệt để các vấn đề toàn cầu, mà cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức/bộ máy, đến từ nhiều lĩnh vực/xuất xứ khác nhau. Đặc biệt, khi nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức lớn, những nỗ lực sẽ được chú ý và quan tâm nhiều hơn, cũng như phát triển mạnh hơn.


Dưới đây là ví dụ để thầy cô tham khảo:

Tại sao các tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói sẽ mang tới những nguồn lực, những thế mạnh đặc biệt để giải quyết các vấn đề về sản xuất & tiêu thụ thiếu bền vững mà các cá nhân/tổ chức nhỏ lẻ không có được?

Ví dụ về một vấn đề cần sự cộng tác để giải quyết: Sự lỗi thời có tính toán (Planned Obsolescence) trong sản xuất hàng hóa điện tử

(GV có thể đọc bài "Sự lỗi thời có tính toán (Planned Obsolescence) là gì? Ảnh hưởng tới người tiêu dùng" để hiểu hơn về khái niệm và sự ảnh hưởng của chiến lược sự lỗi thời có tính toán)


Sự lỗi thời có tính toán (Planned Obsolescence) là một chiến lược trong sản xuất, nói ngắn gọn là các nhà sản xuất cố tình thiết kế sản phẩm có tuổi thọ ngắn hoặc nhanh chóng lỗi thời để thúc đẩy người tiêu dùng mua sản phẩm mới. Điều này đặc biệt phổ biến trong ngành công nghiệp điện tử, nơi mà các thiết bị như điện thoại, máy tính và các sản phẩm điện tử tiêu dùng khác được thiết kế với công nghệ nhanh chóng nhưng độ bền lại không cao, hoặc liên tục update mẫu mã khiến sản phẩm đời trước trở nên lỗi thời hoặc khó sửa chữa.

Chiến lược này đã ảnh hưởng đến hành vi và tâm lý của người tiêu dùng một cách sâu sắc. Người tiêu dùng thường cảm thấy áp lực phải cập nhật thiết bị mới để không bị tụt hậu về công nghệ, dẫn đến việc chi tiêu nhiều hơn cho những sản phẩm không thực sự cần thiết. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến ngân sách cá nhân mà còn góp phần vào việc gia tăng lượng rác thải điện tử, gây áp lực lên môi trường.

Đồng thời chiến lược này cũng gây ảnh hưởng ngược đến phía sản xuất. Khi sản phẩm nhanh chóng hỏng và trở nên lỗi thời cũng làm giảm độ tin cậy của người dùng vào nhà sản xuất. Điều này có thể dẫn đến sự giảm sút lòng trung thành của khách hàng và ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh thương hiệu trong dài hạn.

Tuy nhiên, sự lỗi thời có tính toán vẫn đang tồn tại vì nhiều lí do như:

  • Áp lực cạnh tranh: Trong một thị trường cạnh tranh khốc liệt, các công ty cảm thấy cần phải liên tục đổi mới và cập nhật sản phẩm để giữ chân khách hàng. Nếu không theo kịp xu hướng, họ có thể bị bỏ lại phía sau.
  • Mô hình kinh doanh dựa trên tiêu dùng: Nhiều công ty thiết kế sản phẩm để thúc đẩy người tiêu dùng mua sắm thường xuyên. Đây là cách tạo ra doanh thu liên tục, làm cho việc thay đổi mô hình kinh doanh trở nên khó khăn. Các công ty có thể phải đối mặt với chi phí cao và sự phức tạp khi chuyển từ một mô hình sản xuất không bền vững sang một mô hình bền vững hơn.
  • Thiếu quy định pháp lý: Nhiều quốc gia không có các quy định nghiêm ngặt nhằm kiểm soát sự lỗi thời có tính toán, khiến các công ty có thể tự do thiết kế sản phẩm mà không lo ngại về hậu quả pháp lý.
  • Thói quen tiêu dùng: Người tiêu dùng thường có tâm lý muốn sở hữu những sản phẩm mới nhất, dẫn đến việc họ không nhận ra hoặc không phản đối sự lỗi thời có tính toán. Sự thúc đẩy này làm tăng nhu cầu cho các sản phẩm nhanh chóng lỗi thời.
  • Khó khăn trong việc sửa chữa và bảo trì: Nhiều sản phẩm được thiết kế khó sửa chữa, không có linh kiện thay thế, điều này khiến người tiêu dùng phải mua sản phẩm mới thay vì sửa chữa.
  • Nhiều người chưa biết về chiến lược này hoặc chưa ý thức được tác động tiêu cực của sự lỗi thời có tính toán đối với môi trường và kinh tế, dẫn đến sự thờ ơ đối với vấn đề này.

Vấn đề này không chỉ diễn ra trong 1 ngành/1 quốc gia đơn lẻ mà ngày càng được bắt gặp trong nhiều lĩnh vực ở nhiều nơi trên thế giới. Do đó, để chấm dứt vấn đề này cần có sự cộng tác của nhiều cá nhân/tổ chức toàn cầu, đặc biệt là các tổ chức lớn, có nhiều tiếng nói, để đứng ra đại diện đòi quyền lợi cho người tiêu dùng và những nhà sản xuất chất lượng. Và, cần nhiều tổ chức/cơ quan truyền thông lớn có thể giúp mọi người nhận thức rõ hơn về vấn đề này.

Đã có những nỗ lực cộng tác nào để giải quyết vấn đề? Những cá nhân/tổ chức tham gia vào nỗ lực đó là ai?Ví dụ về một nỗ lực cộng tác: Kiện Apple vì thiết kế sản phầm lỗi thời có tính toán

(GV có thể tham khảo vụ kiện Apple trong bài “Lần đầu Pháp điều tra về cáo buộc doanh nghiệp “hạn chế tuổi thọ sản phẩm” để nắm được toàn cảnh vụ kiện giữa Pháp và tập đoàn Apple; và có thể đọc thêm “Apple Settles with French Authorities over €25 Million Fine" để hiểu hơn về cách các cá nhân/tổ chức lớn và nhỏ trên toàn nước Pháp đã cùng cộng tác để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng như thế nào)

Những năm 2017-2018, cả thế giới xôn xao về vụ kiện giữa Pháp và gã khổng lồ công nghệ Apple. Sau nhiều thử nghiệm trên các những chiếc điện thoại iphone, Hiệp hội HOP (Halte à l’Obsolescence Programmée), tạm dịch là “Ngưng việc thiết kế sản phẩm lỗi thời có tính toán” của Pháp đã thay mặt cho người tiêu dung Pháp, đệ đơn kiện tập đoàn Apple lên toà án Paris vì nghi ngờ cố tình làm giảm hiệu suất của các mẫu iPhone cũ thông qua các bản cập nhật phần mềm mà không thông báo rõ ràng cho người tiêu dùng. Cuộc điều tra được dẫn đầu bởi Cơ quan Giám sát Tiêu dùng Pháp (DGCCRF) về cáo buộc Apple đã không thông báo cho người tiêu dùng rằng việc cập nhật hệ điều hành iPhone sẽ làm chậm hiệu suất của các thiết bị cũ. Hơn 2.600 người dùng iPhone đã cung cấp chứng cớ cho hiệp hội HOP trước toà. Kết quả là Apple bị phạt 25 triệu euro (27 triệu USD) ở Pháp.

Sau vụ kiện của Apple, hiệp hội HOP tiếp tục kiến nghị lên Thượng Viện Pháp yêu cầu các công ty điện thoại di động phải có những thay đổi như thiết kế sản phẩm có thể thay thế pin, phải thông tin rõ ràng hơn cho khách hàng về tuổi thọ của sản phẩm … Giải pháp trên cũng được đưa ra trong một báo cáo của Liên Hiệp Quốc hồi tháng 09/2017. Nghị Viện Châu Âu cũng đã đề nghị Ủy Ban Châu Âu sớm ban hành các quy định chống “việc cố ý hạn chế thời gian sử dụng của sản phẩm”. Sau Pháp, nhiều nước trên thế giới cũng đã đứng lên để kiện Apple, buộc tập đoàn này phải đền bù cho việc làm giảm hiệu suất thiết bị mà không thông báo. Các vụ kiện tại Mỹ, Ý và một số quốc gia khác tiếp tục nổ ra, tạo ra một làn sóng lớn trong việc yêu cầu sự minh bạch và trách nhiệm từ các công ty công nghệ. Vụ việc không chỉ ảnh hưởng đến Apple mà còn làm nổi bật vấn đề về đạo đức trong kinh doanh và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trên toàn cầu.

Sự chú ý từ truyền thông và công chúng đã khiến Apple phải thay đổi chính sách, cam kết cung cấp thông tin minh bạch hơn về cập nhật phần mềm và hiệu suất của sản phẩm, đồng thời xem xét các giải pháp bền vững hơn trong thiết kế sản phẩm. Vụ kiện này đã mở ra một cuộc thảo luận quan trọng về sự lỗi thời có tính toán và trách nhiệm của các công ty trong việc phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng.

Để có thể tiến tới sản xuất và tiêu thụ bền vững, thì bài học từ vụ kiện giữa Pháp và Apple là phải tổng hợp nỗ lực của nhiều cá nhân/tổ chức trong nhiều lĩnh vực, và đặc biệt là những tổ chức lớn, chẳng hạn như:

  • Chính phủ: Các cơ quan chính phủ thiết lập quy định và chính sách để ngăn chặn và kiểm soát sự lỗi thời có tính toán, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và khuyến khích sản xuất bền vững. Trong ví dụ trên, Pháp là nước đi đầu trong phong trào đòi quyền sửa chữa, họ đã cấm chiến lược Sự lỗi thời có tính toán từ 2015, và thậm chí còn là nơi giới thiệu hệ thống tính điểm khả năng sửa chữa đầu tiên ở châu Âu.
  • Cơ quan pháp lý: tiếp nhận điều tra và xử lý các hành vi vi phạm, đồng thời cung cấp khung pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các thực tiễn bền vững.
  • Các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng: Các hiệp hội như Hiệp hội HOP đã đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập chứng cứ và đại diện cho người tiêu dùng trong vụ kiện, thúc đẩy sự minh bạch và trách nhiệm từ các nhà sản xuất.
  • Các chuyên gia công nghệ: đã nghiên cứu, thử nghiệm sản phẩm của Apple, sau đó cung cấp dữ liệu và phân tích để xác thực vấn đề này, hỗ trợ các hành động pháp lý và chính sách.
  • Đơn vị truyền thông: Các phương tiện truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng về vấn đề sự lỗi thời có tính toán. Đồng thời thông báo về các vụ kiện, giải thích hậu quả của các chính sách không bền vững và cổ vũ cho sự thay đổi tích cực.
  • Người tiêu dùng: quan tâm đến quá trình sản xuất và vòng đời sản phẩm và ủng hộ cho những thay đổi tích cực.

K10: Tiếp cận giáo dục

[GCED10-Lesson1.5] Lăng kính 2 - Tư duy Hệ thống: Phân tích các giải pháp cải thiện tình hình tiếp cận giáo dục trên thế giới
Bài này có 3 MTB:
  • MTB 1.5.a: Hiểu rằng giải pháp cho việc tiếp cận giáo dục cần (1) bảo đảm càng nhiều trẻ em được tiếp cận với giáo dục (ở một mức độ nhất định), và (2) cân nhắc những vấn đề đang cản trở việc tiếp cận giáo dục
  • MTB 1.5.b: Nhận biết nội dung & lợi ích của một số giải pháp nổi bật mà thế giới đã làm để giúp nhiều trẻ em được tiếp cận với giáo dục hơn
  • MTB 1.5.c: Đánh giá thực trạng cải thiện tiếp cận giáo dục ở các khu vực khác nhau trên thế giới


Để đạt 3 MTB này, thầy cô có thể (1) nói về việc giải pháp cho vấn đề tiếp cận giáo dục sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không giải quyết được những nguyên nhân dẫn tới vấn đề, (2) nói về việc giải pháp cho vấn đề tiếp cận giáo dục sẽ thiếu hiệu quả sẽ thiếu hiệu quả như thế nào nếu không tác động được tới những yếu tố khác trong xã hội đang duy trì nguyên nhân gây ra vấn đề, và (3) giới thiệu những giải pháp đã giải quyết được nguyên nhân dẫn tới vấn đề, hoặc tác động được tới những yếu tố khác trong xã hội, và lợi ích cụ thể của những giải pháp này.

Vậy bình luận về giải pháp như thế nào? Thầy cô có thể:

  • chọn trước một giải pháp X mà mình muốn giới thiệu cho HS, sau đó nói về việc giải pháp này đã giúp giải quyết nguyên nhân A nào (hoặc, đã giảm thiểu thực trạng vấn đề như thế nào), và giải pháp đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.
  • hoặc, chọn một vấn đề mà thầy cô nghĩ HS cần quan tâm, sau đó nói về nguyên nhân A gây ra vấn đề này, và đã có giải pháp X nào hướng tới nguyên nhân A này (hoặc nói về việc giải pháp X đã giảm thiểu thực trạng của vấn đề như thế nào), đã mang lại thay đổi tích cực ra sao.


Giống như mọi giải pháp khác, giải pháp X mà thầy cô lấy làm ví dụ có thể sẽ không giải quyết được mọi nguyên nhân, hoặc giảm thiểu được triệt để thực trạng của vấn đề). Do đó, thầy cô nên dẫn dắt để HS hiểu rằng giải pháp vừa nêu sẽ không giải quyết được nguyên nhân B, C, v.v. ra sao, và có thể sẽ không giảm thiểu được thực trạng của vấn đề như thế nào. Làm vậy không phải để phủ nhận giải pháp X, mà để cho HS hiểu rằng để giải quyết triệt để vấn đề thì mọi người sẽ cần làm nhiều việc hơn là X.


Dưới đây là một ví dụ về giải pháp để thầy cô tham khảo, thầy cô có thể làm slide để giải thích lại ví dụ này cho HS

Giải pháp Bình luận về giải pháp này
1. Miễn phí giáo dục

GV có thể tham khảo slide mẫu từ PCT để minh họa cho HS. Slide được chia làm 2 phần:

  • Slide 1 - mind map nói về các nguyên nhân để dẫn tới tình trạng nhiều trẻ em nghèo không được tới trường.
  • Slide 2 - đưa ra 1 giải pháp đang thường được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới kèm theo phân tích về các lợi ích và các nguyên nhân vấn đề mà giải pháp đó chưa giải quyết được
Giải pháp này là gì? Làm được gì?(GV có thể tham khảo bài viết ""Chương trình miễn học phí ở các nước: Vì mục tiêu bình đẳng giáo dục"để bước đầu hiểu được giải pháp "Miễn phí giáo dục" có nghĩa là gì)

Tiếp cận giáo dục là một trong số những quyền cơ bản của con người, nhưng nhiều người ở nhiều nơi lại không được hưởng quyền lợi này. Nguyên nhân dẫn tới vấn đề này rất đa dạng, từ môi trường sống tới chính sách, v.v đồng thời các nguyên nhân dẫn tới vấn đề thường có mối quan hệ phức tạp. Từ đó một số giải pháp đã ra đời, trong đó có "miễn phí giáo dục". Giải pháp này hướng tới giải quyết những nguyên nhân như:

  • Giảm gánh nặng tài chính cho gia đình: Việc miễn học phí sẽ giúp các gia đình, đặc biệt là những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, giảm bớt một gánh nặng kinh tế lớn. Có nghĩa sẽ tăng cơ hội học tập, nhiều trẻ em sẽ có cơ hội được đến trường và tiếp cận với kiến thức, kỹ năng cần thiết để phát triển bản thân.
  • Xóa bỏ bất bình đẳng: Cơ hội ngang nhau mà giáo dục miễn phí tạo ra cơ hội ngang nhau cho tất cả mọi người, bất kể xuất thân hay hoàn cảnh gia đình sẽ giúp giảm thiểu định kiến xã hội thông qua việc xóa bỏ rào cản về người nghèo và tạo ra một xã hội công bằng hơn.


Giải pháp này chưa làm được gì?

Tuy nhiên vẫn còn một số nguyên nhân và thực trạng khác mà giải pháp này chưa giải quyết được là:

  • Yếu tố xã hội: như định kiến xã hội, mặc dù giáo dục miễn phí, nhưng định kiến về giới, vùng miền, dân tộc vẫn có thể ảnh hưởng đến cơ hội học tập của nhiều trẻ em.
  • Khó khăn trong việc tiếp cận thông tin: Nhiều phụ huynh, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, không có nhiều thông tin về các chính sách giáo dục, các chương trình hỗ trợ. Nếu không thể giải quyết thực trạng này thì trẻ em ở những nơi đó vẫn sẽ không được đi học
  • Gánh nặng tài chính cho quốc gia. Vì khi miễn phí giáo dục đồng nghĩa Nhà nước sẽ phải tăng thuế để có thể tài trợ các chi phí vận hành trường học. Hệ quả là chi phí sinh hoạt cũng sẽ phải tăng theo
  • Khó khăn trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục: Khi giáo dục được miễn phí, có một rủi ro là sẽ khiến cho nhiều cá nhân thiếu động lực học tập vì giáo dục giờ là miễn phí


Như vậy, tuy giáo dục miễn phí là một giải pháp tiềm năng để giải quyết vấn đề tiếp cận giáo dục ở nhiều quốc gia, nhưng vì chưa giải quyết được hết nguyên nhân nên vấn đề trẻ em không được tiếp cận giáo dục vẫn sẽ diễn ra.

[GCED10-Lesson1.9] Lăng kính 5 - Cộng tác: Những cá nhân/tổ chức đang góp phần cải thiện tình hình tiếp cận giáo dục trên thế giới
Bài này có 2 MTB:
  • MTB 1.9.a: Hiểu rằng tình hình tiếp cận giáo dục chỉ có thể được cải thiện nếu các quốc gia trên thế giới (bao gồm các tổ chức lớn và nhỏ, từng cá nhân ở mỗi quốc gia) chủ động cộng tác với nhau
  • MTB 1.9.b: Xác định mạng lưới các cá nhân, tổ chức lớn và nhỏ trên thế giới đang cộng tác với nhau để cải thiện vấn đề tiếp cận giáo dục, và giải thích họ đang cùng nhau đạt mục tiêu chung như thế nào

Để đạt được các MTB này, thầy cô có thể:

  • Chọn một vấn đề X mà thầy cô nghĩ rằng HS sẽ quan tâm, hoặc một vấn đề nào đó HS thường chưa biết tới, và có liên quan đến chủ đề "Tiếp cận giáo dục",
  • Làm rõ lí do vì sao các quốc gia trên thế giới (bao gồm các tổ chức lớn và nhỏ, từng cá nhân ở mỗi quốc gia) cần phải chủ động cộng tác với nhau để cải thiện tình hình hình tiếp cận giáo dục ở bất cứ đâu
  • Sau đó, thầy cô có thể yêu cầu HS tìm hiểu về những nỗ lực cộng tác giữa:
  • Tổ chức A với tổ chức B: Nên đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc các tổ chức nhỏ vốn hoạt động độc lập, tuy nhiên để giải quyết vấn đề X nên đang hoạt động cùng nhau. Hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia.
  • Tổ chức A với người dân: Nên đề cập tới những tổ chức lớn, có nhiều tổ chức con, đối tác, và hoạt động ở nước khác nhau (chẳng hạn như UN - Liên Hợp Quốc), hoặc, đề cập tới các tổ chức/cơ quan công của một quốc gia. Không chỉ đề cập tới những trường hợp mà tổ chức A cho người dân gì đó một chiều, mà nên đề cập tới những mối quan hệ hai chiều. VD: cộng tác với chính quyền địa phương để cùng giúp đỡ một nhóm đối tượng X nào đó.


Mục đích của việc này là để HS hiểu rằng các vấn đề toàn cầu vô cùng phức tạp và có thể xảy ra ngay bên cạnh HS. Không một nỗ lực nhỏ lẻ của từng cá nhân nào có thể giải quyết triệt để các vấn đề toàn cầu, mà cần có sự cộng tác của các cá nhân/tổ chức/bộ máy, đến từ nhiều lĩnh vực/xuất xứ khác nhau. Đặc biệt, khi nhận được sự hỗ trợ từ các quốc gia khác nhau những nỗ lực sẽ được chú ý và quan tâm nhiều hơn, cũng như phát triển mạnh hơn.


Dưới đây là ví dụ để thầy cô tham khảo:

Tại sao vấn đề tình hình tiếp cận giáo dục chỉ có thể được cải thiện nếu các quốc gia trên thế giới (bao gồm các tổ chức lớn và nhỏ, từng cá nhân ở mỗi quốc gia) chủ động cộng tác với nhau?

Ví dụ về một vấn đề cần sự cộng tác để giải quyết: Người dân ở nhiều nơi tại Việt Nam thiếu khả năng sử dụng ngoại ngữ tiếng Anh, và do đó Việt Nam sẽ bị hạn chế cơ hội hội nhập & phát triển.

(GV có thể đọc bài viết “Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học: Cần giải pháp đồng bộ” để hiểu hơn về thực trạng và thách thức của việc đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 ở trường, cũng như những giải pháp hệ thống được đề xuất từ thực trạng của Việt Nam)


Trước xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay, một quốc gia sẽ khó có thể tồn tại được nếu tách mình ra khỏi mối liên kết toàn cầu. Và để có thể liên kết và làm việc với các quốc gia khác thì các bên cần có một ngôn ngữ giao tiếp chung, trong đó tiếng Anh thường là lựa chọn được nhiều quốc gia nghĩ đến. Việc đưa tiếng Anh như 1 ngôn ngữ giảng dạy thứ 2 vào trong các nhà trường nổi lên như một nhu cầu cấp thiết. Tiếng Anh hiện nay không chỉ là một ngôn ngữ toàn cầu mà còn là công cụ giao tiếp quan trọng trong kinh doanh, khoa học và công nghệ, thậm chí là trong giao tiếp giữa máy móc và con người. Nhưng để thực hiện việc chuyển đổi trên phạm vi một khu vực hay một quốc gia thì cần có sự chung tay của nhiều cá nhân/tổ chức, thậm chí là từ các quốc gia khác.

Một lý do quan trọng khác là giáo dục không chỉ là một vấn đề riêng lẻ của từng quốc gia, mà còn có tính toàn cầu. Những thách thức như nghèo đói, thiên tai, hoặc khủng hoảng sức khỏe có thể ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận giáo dục của nhiều quốc gia. Khi các quốc gia hợp tác, họ có thể chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực và những giải pháp sáng tạo, từ đó tạo ra những chiến lược hiệu quả hơn để cải thiện tình hình giáo dục.

Để có thể đưa tiếng Anh vào trường học thì cần phải làm một số việc như:

  • Hoàn thiện hành lang pháp lý và định hướng rõ ràng về việc khai các chương trình đào tạo tiếng Anh theo từng giai đoạn cụ thể.
  • Đào tạo, nâng cao chất lượng giáo viên, chất lượng chương trình và tài liệu giảng dạy.
  • Tăng cường đầu tư trang thiết bị giảng dạy hiện đại, đặc biệt ở các khu vực vùng sâu, vùng xa.
  • Thúc đẩy chia sẻ kinh nghiệm và mô hình đào tạo tiếng Anh hiệu quả.


Tuy nhiên, để thực hiện được các việc trên thì chỉ với nỗ lực của 1 quốc gia nhỏ lẽ sẽ cần rất nhiều thời gian. Do đó, việc các quốc gia trên thế giới (bao gồm các tổ chức lớn và nhỏ, từng cá nhân ở mỗi quốc gia) chủ động cộng tác với nhau sẽ mang lại những nguồn lực to lớn như:

  • Chia sẻ kinh nghiệm: Các quốc gia có thể học hỏi lẫn nhau trong việc xây dựng chiến lược phát triển giáo dục lâu dài phù hợp với nhu cầu và bối cảnh văn hóa của từng quốc gia.
  • Chia sẻ tài nguyên: Những tài liệu giảng dạy, khóa học trực tuyến và ứng dụng học tiếng Anh đã được kiểm chứng ở một quốc gia có thể được chia sẻ và cân nhắc sử dụng dựa trên thực tế ở quốc giá khác.
  • Đào tạo giáo viên: Các chương trình đào tạo/tập huấn nâng cao năng lực giáo viên có thể được tổ chức giữa các quốc gia, nơi các giáo viên có kinh nghiệm có thể truyền đạt kỹ năng và phương pháp giảng dạy hiệu quả.
  • Nâng cao cơ sở vật chất: Hỗ trợ đầu tư vào cơ sở hạ tầng giáo dục để đảm bảo mọi học sinh đều có điều kiện học tập tốt nhất, ngay cả ở những khu vực vùng sâu, vùng xa.
  • Tạo cơ hội giao lưu văn hóa: Các chương trình trao đổi sinh viên và giảng viên sẽ giúp nâng cao kỹ năng ngôn ngữ trong môi trường thực tế, đồng thời thúc đẩy sự hiểu biết và gắn kết giữa các nền văn hóa khác nhau.

Chính vì thế mà để nâng cao khả năng tiếng Anh của người dân trong 1 quốc gia cần có sự cộng tác nhiều quốc gia trên thế giới (bao gồm các tổ chức lớn và nhỏ, từng cá nhân ở mỗi quốc gia).

Đã có những nỗ lực cộng tác nào để giải quyết vấn đề? Những cá nhân/tổ chức tham gia vào nỗ lực đó là ai?Ví dụ về một nỗ lực cộng tác: Trao học bổng du học cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn

(GV có thể tham khảo bài "Từ bản người Dao đến học bổng Châu Âu" để khám phá hành trình vượt khó đầy cảm hứng của một cô gái người Dao, qua đó thấy rõ cách mà học bổng du học đã trở thành chìa khóa mở ra cánh cửa tương lai cho cô)


Với nhiều người, việc được tiếp cận với giáo dục là một ước mơ, nhưng đối với người dân sống ở khu vực miền núi hẻo lánh, điều này còn khó khăn hơn gấp bội. Sự cách biệt về địa lý, điều kiện kinh tế eo hẹp, và những định kiến xã hội đã tạo nên rào cản lớn, khiến họ ít có cơ hội được đi học. Việc thiếu giáo dục không chỉ hạn chế sự phát triển cá nhân, mà còn làm trầm trọng thêm vòng lặp của đói nghèo, khiến cho thế hệ trẻ em sau này cũng gặp phải những trở ngại tương tự trong việc tiếp cận tri thức. Đây không chỉ là vấn đề thu hút sự quan tâm của người dân cả nước mà còn cả cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các quốc gia/tổ chức quan tâm tới việc thúc đẩy giáo dục bình đẳng.


Để giúp đỡ trẻ em miền núi được tiếp cận với giáo dục, nhiều suất học bổng đã được trao cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, tạo cơ hội cho các em được tiếp tục con đường học tập của mình. Không chỉ trao cho các em cơ hội học tập trong nước, mà thậm chí là cả cơ hội du học ở các quốc gia phát triển. Chảo Yến là một trong số những trường hợp như vậy. Đã từng phải nghỉ học 3 năm trời để ở nhà phụ giúp gia đình. Nhận thấy tinh thần ham học hỏi của Chảo Yến, thầy cô giáo cũ đã vận động gia đình cho Yến đi học lại. Không phụ tấm lòng của mọi người Yến đã vươn lên trở thành sinh viên xuất sắc và sau đó tiếp tục nhận được học bổng du học tại Châu Âu, mở ra cho cô những cơ hội mới để phát triển bản thân và cống hiến cho cộng đồng. Sau khi về nước, cô có cơ hội làm việc, trau dồi kỹ năng tại các tổ chức quốc tế lớn nhưng Chảo Yến đã chọn con đường quay lại phát triển quê hương mình, viết cuốn sách "Từ bản người Dao đến học bổng Erasmus" và trích lợi nhuận từ việc xuất bản sách để thành lập quỹ học bổng cho học sinh nghèo tại quê nhà. Từ đó ta có thể thấy, việc được tiếp cận với giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp thay đổi cuộc sống của không chỉ một cá nhân mà là cả cộng đồng xung quanh cá nhân đó.


Đằng sau những câu chuyện như Chảo Yến là nỗ lực của rất nhiều cá nhân/tổ chức trong nhiều lĩnh vực, giữa Việt Nam và các nước trên thế giới, chẳng hạn như:

  • Chính phủ Việt Nam: ban hành các chính sách và chương trình hỗ trợ giáo dục cho vùng sâu, vùng xa. Bao gồm việc phân bổ ngân sách cho giáo dục, phát triển cơ sở hạ tầng học đường, và xây dựng các chương trình hỗ trợ giáo dục cho các vùng sâu, vùng xa. Đồng thời đảm bảo các chính sách được thực thi một cách hiệu quả.
  • Chính phủ các quốc gia khác: xây dựng các chương trình học bổng cho học sinh xuất sắc có hoàn cảnh khó khăn ở các quốc gia kém phát triển hơn. Đưa ra những quy chế về việc tiếp nhận và hỗ trợ du học sinh cho chính quyền địa phương và các trường học.
  • Các quỹ học bổng của địa phương, quốc gia và quốc tế: cung cấp học bổng cho học sinh/sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Những quỹ này không chỉ giúp giảm gánh nặng tài chính mà còn khuyến khích tinh thần học tập và cống hiến cho cộng đồng. Một số quỹ cũng tập trung vào việc tạo ra cơ hội du học, mở rộng tầm nhìn và trải nghiệm cho học sinh.
  • Các tổ chức phi chính phủ ví dụ như UNICEF và UNESCO: Hỗ trợ chương trình giáo dục cho trẻ em, đặc biệt ở những khu vực khó khăn. Họ không chỉ cung cấp tài chính mà còn giúp thiết kế và thực hiện các chương trình giáo dục sáng tạo, phù hợp với nhu cầu của cộng đồng địa phương.
  • Trường học trong và ngoài nước: đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ, truyền dạy kiến thức và rèn luyện phẩm chất cho giới trẻ. Đồng thời, giáo viên còn đóng vai trò là người hướng dẫn, truyền cảm hứng và khuyến khích học sinh vượt qua khó khăn trong học tập.
  • Gia đình và xã hội: có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích trẻ em đi học và tạo một môi trường an toàn để trẻ có thể yên tâm học tập.
  • Những cá nhân đã vượt khó thành công: có thể đóng góp bằng cách chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức của mình để truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ vượt qua khó khăn trên con đường học tập của mình.
  • v.v.

K11: Năng lượng bền vững

K12: Chất lượng cuộc sống