Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Draft2”

Từ GCED
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 647: Dòng 647:




{| class="wikitable" style="overflow-x: scroll"
{| class="wikitable" style="overflow-y: scroll"
|'''Tên tài liệu'''
|'''Tên tài liệu'''
|'''Link cũ'''
|'''Link cũ'''

Phiên bản lúc 07:51, ngày 24 tháng 7 năm 2024

top header 1

{{#if: left header 1

left header 1
}}{{#if: left header 2
left header 2
}}{{#if: ...
...
}}{{#if: left header 30
left header 30
}}{{#if:   |​
side header 5
}}{{#if:   |​
side header 6
}}{{#if:   |​
side header 7
}}{{#if:   |​
side header 8
}}{{#if:   |​
side header 9
}}{{#if:  |​
side header 10
}}{{#if:  |​
side header 11
}}{{#if:  |​
side header 12
}}{{#if:  |​
side header 13
}}{{#if:  |​
side header 14
}}{{#if:  |​
side header 15
}}{{#if:  |​
side header 16
}}{{#if:  |​
side header 17
}}{{#if:  |​
side header 18
}}{{#if:  |​
side header 19
}}{{#if:  |​
side header 20
}}{{#if:  |​
side header 21
}}{{#if:  |​
side header 22
}}{{#if:  |​
side header 23
}}{{#if:  |​
side header 24
}}{{#if:  |​
side header 25
}}{{#if:  |​
side header 26
}}{{#if:  |​
side header 27
}}{{#if:  |​
side header 28
}}{{#if:  |​
side header 29
}}{{#if:  |​
side header 30
}}
left header 31 (extra)
top header 2 top header 3 top header 4 top header 5 top header 6 top header 7 top header 8 top header 9 top header 10 top header 11 top header 12 top header 13 top header 14 top header 15 top header 16 top header 17 top header 18 top header 19 top header 20
Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum
Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum
Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum Lorem ipsum

Khối 2 đã học hết bài 3.4 Định hướng Dự án Hành động, hầu hết các lớp có 2 nhóm cộng đồng muốn giải quyết là cư dân ở Vinhome OCP và học sinh khối 1/ 2 trường VSC OCP. Nội dung triển khai Dự án Hành động gồm 6 tiết, HS có thể triển khai dự án bên ngoài trường học. Vậy mỗi lớp đều có nhóm cư dân và nhóm học sinh tại trường, các lớp có tiết học lại khác nhau. Làm thế nào để hợp lí việc triển khai dự án của các nhóm (trong và ngoài trường) và đảm bảo được an toàn của HS các nhóm khi thực hiện dự án ngoài lớp học?


Cách thức triển khai hành tuyên truyền như thế nào cho hiệu quả? Thầy gọi ý thêm một số cách thức trình bày dự án?

1. 1 số nhóm trong 1 vài lớp có thể có những dự án giống nhau về nội dung. Có được/ có nên cùng nhau thực hiện phần hành động không?


Có đánh giá điểm


Kết thúc Chương 3, HS đã được tạo nhóm để cùng nhau thực hiện Dự án Hành động, và đã bắt đầu viết Hồ sơ Dự án (hoặc, GV viết hộ HS), trong đó bao gồm những thông tin cơ bản nhất của các thành viên trong nhóm để phục vụ cộng đồng. HS đã đề xuất ít nhất một vấn đề mà mình muốn giải quyết, 1 đối tượng/cộng đồng đang gặp vấn đề này (mà nhóm muốn phục vụ), và một vài ý tưởng để HS giải quyết vấn đề.

Chương 4: Lập kế hoạch & Chuẩn bị là cấu phần thứ hai, và cũng là cấu phần quan trọng nhất của Giai đoạn "Làm". Lý do đơn giản là vì việc chuẩn bị kỹ lưỡng, cẩn thận luôn đóng vai trò tối quan trọng, quyết định mức độ hiệu quả của bất cứ dự án nào. Không những vậy, việc chuẩn bị cũng giúp cho HS được thật sự thực hành những gì mình đã học, tạo ra sự tiếp nối liền mạch giữa Giai đoạn Học thứ nhấtgiai đoạn Làm.

🔎 Xem thêm: Timeline học tập để hiểu thêm về các Giai đoạn trong môn GCED

Chương 4 sẽ


Ba nhiệm vụ chính mà HS cần thực hiện trong Chương 4 là:

  • Điều tra về vấn đề & đói tượng/cộng đồng: HS đã đề xuất vấn đề ở Chương 3, vậy vấn đề này có thật không? Đối tượng/cộng đồng có mong muốn nhận được sư giúp đỡ của HS không? Những ý tưởng của HS có giúp giải quyết được vấn đề không? Đây là những câu hỏi mà HS cần trả lời khi đi điều tra về vấn đề & đối tượng/cộng đồng
  • Xác định giải pháp cuối cùng: Sau khi đã tìm hiểu đủ kỹ về vấn đề mình muốn giải quyết, và đối tượng/cộng đồng mình muốn phục vụ, HS sẽ cân nhắc giải pháp nào là phù hợp nhất để giải quyết vấn đề. Và trước đó, HS cũng sẽ được GV giới thiệu, hoặc sẽ tự tham khảo một số giải pháp có sẵn để học hỏi cho giải pháp của mình.
  • Lập kế hoạch triển khai giải pháp: Sau khi đã thống nhất giải pháp cuối cùng, HS sẽ lập kế hoạch để triển khai giải pháp này, và việc lập kế hoạch sẽ bao gồm những yếu tố như xác định nguồn lực, xác định mục tiêu, v.v.


Yêu cầu dành cho HS của Chương 4

GCED sử dụng phương pháp Học qua phục vụ theo trường phái học thuật, tức có nghĩa sẽ sử dụng việc phục vụ để "phục vụ" việc học. Trên tình thần đó, Dự án Hành động của các nhóm phải đạt được những mục tiêu sau trong Chương 4:

Mục tiêu học tập (mục tiêu cá nhân):

  1. Dự án Hành động có thể bổ trợ, kết nối & giúp HS hiểu sâu hơn về bài Truy vấn Cá nhân (đã hoàn thành ở Chương 2). Do đó, mỗi HS cần xác định được mối liên kết giữa Truy vấn cá nhân của mình với Dự án Hành động.

Mục tiêu phục vụ (mục tiêu chung của nhóm):

  1. Dự án Hành động được xây dựng trên nhu cầu có thật của một cộng đồng cụ thể, có thể đem lại giải pháp sát với thực tế, và có tính ứng dụng cao. Do đó, nhóm HS cần điều tra nhu cầu thiết thực của cộng đồng được phục vụ.
  2. Dự án Hành động được chuẩn bị kỹ càng, đã cân nhắc tất cả những yếu tố cần thiết. Do đó, nhóm HS cần có được một bản kế hoạch hành động cho dự án của nhóm.

Tất nhiên, độ khó/yêu cầu của mỗi mục tiêu này sẽ khác nhau tùy theo khối lớp, và đã được quy định rõ trong Khung Chương trình của 12 khối lớp.

Lưu ý:
Chương 4 có thể là thời điểm tốt để HS "kết nối" với các đối tác bên ngoài, hay những người/tổ chức có thể giúp các em. Làm vậy vừa giúp cho việc phục vụ cộng đồng hiệu quả hơn, vừa giúp truyền thông để mọi người hiểu rõ lợi ích mà HS có thể mang lại cho cộng đồng. Tuy nhiên, đây không phải yêu cầu bắt buộc, GV và HS chỉ nên hướng tới nếu điều kiện cho phép, và vẫn cần tập trung vào những mục tiêu chính đã nêu ở trên.

🔎 Xem thêm: Liên kết với các đối tác bên ngoài trong trường hợp thầy cô muốn Dự án của nhóm HS được hỗ trợ/kết nối với các đối tác bên ngoài.

Một số lưu ý trước khi bắt đầu Chương 4

Kết thúc Chương 3, HS đã được ghép nhóm để cùng nhau thực hiện Dự án Hành động, và đã hoàn thành Đề án Hành động, trong đó tóm tắt qua nhóm sẽ làm gì, làm như thế nào để phục vụ cộng đồng. Đúng như tên gọi, Đề án này sẽ là tiền đề để HS bắt đầu thực hiện Dự án Hành động trong HK2, bắt đầu bằng việc lập kế hoạch & chuẩn bị cho Dự án (ở Chương 4).

Một phần quan trọng trong Đề án Hành động là đề tài Dự án của các em. Đề tài này phải:*liên quan tới Chủ đề trọng tâm

  • liên quan tới Truy vấn Cá nhân của từng thành viên

2 điều kiện này nhằm đảm bảo HS được thực hành, được kiểm chứng những gì mình đã học & tìm hiểu, giúp cho trải nghiệm học tập của các em không bị đứt quãng. Do đó, nếu Đề án mà nhóm HS nộp cho thầy cô không đạt được cả 2 điều kiện trên, thầy cô nên yêu cầu HS đổi sang một đề tài khác. Nếu nhóm HS không có khả năng, hoặc tốn quá nhiều thời gian để xác định một đề tài mới, thầy cô nên gợi ý sẵn một số đề tài phù hợp hơn. Những đề tài mà thầy cô gợi ý (1) vẫn phải đạt được 2 điều kiện nêu trên, và (2) không quá khác so với đề tài ban đầu của nhóm HS (để đảm bảo HS không làm gì đó mà mình không thật sự tò mò & không muốn làm).

Không khuyến khích yêu cầu HS thay đổi Truy vấn Cá nhân để phù hợp hơn với đề tài nhóm. Lý tưởng nhất là thầy cô đã phát hiện ra vấn đề từ Chương 3, và đã yêu cầu HS sửa Truy vấn Cá nhân từ lúc đó. Thầy cô chỉ cho phép HS thay đổi Truy vấn Cá nhân ở Chương 4 nếu HS có thể (1) tự mình làm vậy, (2) không mất quá nhiều thời gian để đổi, và (3) Truy vấn Cá nhân mới này vẫn thỏa mãn một số yêu cầu nhất định.

Nếu HS muốn thay đổi Truy vấn Cá nhân, thầy cô cần bảo đảm rằng Truy vấn Cá nhân mới này:
  • vẫn xuất phát từ những câu hỏi/mối quan tâm cụ thể (thể hiện sự tò mò của HS),
  • đã có câu trả lời rõ ràng (thể hiện rằng HS đã chủ động tìm hiểu về mối quan tâm mới này).


HS không cần thiết phải viết lại một bài nghiên cứu ngắn (như đã làm với Truy vấn Cá nhân cũ), nhưng ít nhất Truy vấn cá nhân mới của HS phải đạt được những điều kiện nêu trên.

Điều tra nhu cầu & Xác định giải pháp cho cộng đồng

Ý nghĩa của việc điều tra nhu cầu, từ đó xác định giải pháp cho cộng đồng

Trong bản Đề án của mỗi nhóm HS (sản phẩm ở cuối Chương 3), các em đã nêu rõ đối tượng/cộng đồng mà mình sẽ phục vụ, lý do vì sao mình lại chọn cộng đồng đó, cũng như ý tưởng của nhóm để giúp đỡ cộng đồng.

Vậy, tại sao lại cần thêm một bước nghiên cứu điều tra nhu cầu & xác định giải pháp cho cộng đồng nữa? Liệu bước này có trùng với những gì HS đã làm không?

  • Câu trả lời là không. Những gì HS viết trong Đề án chỉ dừng ở mặt ý tưởng (vì các em mới được tạo nhóm), chưa đủ thời gian chứng minh được cộng đồng mà các em định giúp có nhu cầu thật sự hay không. Nếu HS không chắc chắn về nhu cầu này, rất có thể Dự án Hành động của các em sẽ không phục vụ được đúng đối tượng, hoặc không đúng nhu cầu lớn nhất của đối tượng đó.
  • Hơn nữa, việc điều tra cẩn thận cũng giúp nhóm HS trả lời được câu hỏi tiếp theo: Với nhu cầu này của cộng đồng, liệu mình có thực hiện/đáp ứng được không? Cần phải làm gì tiếp theo để phục vụ cộng đồng. Trả lời được câu hỏi này sẽ giúp ích cho việc lập kế hoạch của HS, khi HS cần phải xác định rõ ràng những công việc/điều kiện cần đạt được để triển khai dự án hiệu quả.

Dưới đây là ví dụ để thầy cô hình dung rõ hơn về sự khác biệt giữa yêu cầu của Chương 3 & Chương 4:

Nhu cầu cộng đồng & Giải pháp trong Đề án

(Ở cuối Chương 3)

Nhu cầu cộng đồng & Giải pháp sau khi đã điều tra

(Ở đầu Chương 4)

  • HS chỉ cần nêu cộng đồng mình muốn phục vụ là ai, họ đang gặp khó khăn gì.
  • HS chỉ cần nêu lý do nhóm muốn phục vụ cộng đồng. Có thể sử dụng một vài bằng chứng/số liệu để giải thích lý do này.
  • HS nói qua về giải pháp của mình, và có thể giải thích vì sao mình lại chọn giải pháp này.
*HS phải chứng minh được cộng đồng mình muốn phục vụ đang bị ảnh hưởng bởi các vấn đề liên quan tới Chủ đề trọng tâm, và vấn đề đó mang tính cấp thiết.
  • HS bắt buộc phải sử dụng các nguồn thông tin bên ngoài để chứng minh cho nhu cầu của cộng đồng.
  • HS phải mô tả kỹ giải pháp của mình để thầy cô hiểu cụ thể HS định làm gì. HS có thể sẽ phải giải thích/chứng minh được tính hợp lý của giải pháp này.

Việc điều tra nhu cầu & xác định giải pháp cho cộng đồng là yêu cầu bắt buộc đầu tiên để thầy cô phê duyệt Dự án Hành động của từng nhóm HS. Việc điều tra này sẽ giống như một bài Truy vấn Cá nhân "mini", tức có nghĩa nhóm HS sẽ phải đi thu thập dữ liệu để trả lời câu hỏi của mình về nhu cầu, sau đó báo cáo về kết quả tìm kiếm của nhóm.

Lưu ý:
Trong GCED, 1 cộng đồng được coi là có "nhu cầu thiết thực" nếu:
  • Cộng đồng đó đang chịu ảnh hưởng của những vấn đề liên quan tới Chủ đề trọng tâm mà HS đang học;
  • Vấn đề đó chưa được giải quyết, và cần được giải quyết sớm, nếu không sẽ ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống/an sinh của cộng đồng.
  • Cách điều tra nhu cầu & xác định giải pháp cho cộng đồng

    Ở bước này, HS đã xác định được 1 cộng đồng mình muốn phục vụ, cũng như dự đoán về nhu cầu của cộng đồng đó. Tiếp theo, HS sẽ cần cân nhắc một vài bước sau đề điều tra nhu cầu của cộng đồng:

    Các bước điều tra nhu cầu & xác định giải pháp cho cộng đồng
    Các yếu tố cần cân nhắc Hướng dẫn thực hiện Lưu ý
    Thông tin cần thu thập Dựa trên định nghĩa về "nhu cầu thiết thực", thầy cô có thể định hướng để HS trả lời một số câu hỏi như:
    • Cộng đồng mà em đã chọn là những ai? Cộng đồng này có quá lớn, hay quá nhỏ không?
    • Cộng đồng này đang gặp những vấn đề gì cần được giải quyết? Những vấn đề này có liên quan tới Chủ đề trọng tâm mình đang học không?
    • Vấn đề này đã được giải quyết trước đó chưa? Nếu rồi, vấn đề đó còn xảy ra không?
    • Việc giải quyết vấn đề này (nếu còn) có phải 1 nhu cầu thiết thực của cộng đồng không?
    • Có những cách gì để đáp ứng nhu cầu thiết thực này? Nhóm em có khả năng làm được gì?
    *Nếu trong quá trình điều tra, HS phát hiện ra cộng đồng mình đã chọn (trong Đề án) không có nhu cầu thiết thực nào cần giải quyết, HS có thể chọn 1 cộng đồng khác.
    • Tương tự, nếu HS phát hiện ra cộng đồng có nhu cầu thiết thực, nhưng bản thân nhóm lại không có khả năng giúp đỡ được một cách hợp lý, các em có thể chuyển hướng sang một cộng đồng/nhu cầu khác.


    Trong những trường hợp này, HS cần thông báo cho GV để thầy cô nắm thông tin và đưa ra hỗ trợ kịp thời.

    Nguồn thông tin HS không được tự kết luận nếu chưa tham khảo/thu thập thông tin từ bên ngoài. Một số nguồn thông tin gợi ý như sau:
    • Ý kiến của những người gần gũi, có hiểu biết hơn mình (bố mẹ, anh chị, thầy cô, v.v.).
    • Phỏng vấn chuyên gia về những vấn đề liên quan tới Chủ đề trọng tâm
    • Phỏng vấn trực tiếp đối tượng cần phục vụ.
    • Những nguồn thông tin chính thống, đáng tin cậy trên mạng.
    • Sách, báo, bài luận, bài phân tích của các chuyên gia.
    Khuyến khích HS sử dụng nhiều hơn 1 nguồn
    • Với HS nhỏ (lớp 1 - 5): Các em có thể chỉ cần hỏi ý kiến người thân, tuy nhiên phải giải thích được lý do đó bằng từ ngữ của mình
    • Với HS lớn hơn (lớp 6 trở lên): Có thể chọn những cách khó hơn, tùy vào khả năng/thời gian của nhóm.


    Nếu HS chọn phỏng vấn chuyên gia hoặc cộng đồng, các em nên liên hệ trước, đồng thời lập kế hoạch rõ ràng để bảo đảm nhóm có thể thu thập được dữ liệu từ những đối tượng này. Khuyến khích HS nên chủ động việc này, tuy nhiên GV vẫn có thể hỗ trợ nếu cần.

    Kế hoạch thu thập & báo cáo thông tin Nhóm HS cần cân nhắc những yếu tố sau:
    • Phân công thu thập thông tin: Ai sẽ tìm hiểu/nghiên cứu về mảng nào? Mỗi người thực hiện một nhiệm vụ riêng, HAY cả nhóm cùng tìm hiểu, sau đó đối chiếu/so sánh kết quả? Nếu cần phỏng vấn người khác, ai sẽ là người liên hệ?
    • Thời gian thu thập: Mất bao lâu để đi hỏi ý kiến/phỏng vấn/đọc thông tin trên mạng?
    • Đưa ra kết luận: Nhóm sẽ tự thảo luận với nhau để đưa ra kết luận, hay cần nhờ sự trợ giúp của GV?
    • Báo cáo thông tin: Cả nhóm sẽ chuẩn bị những gì để báo cáo? (Nội dung, slides, phiếu báo cáo, v.v.)
    Thầy cô có thể hỗ trợ HS tự lên kế hoạch, tuy nhiên vẫn khuyến khích để nhóm tự chủ động làm việc.


    Khuyến khích thầy cô tổ chức 1 - 2 buổi báo cáo để các nhóm HS báo cáo về kết quả điều tra của mình, tuy nhiên không bắt buộc. Thầy cô có thể yêu cầu HS viết báo cáo ngắn, hoặc có thể hỏi trực tiếp các thành viên/nhóm trưởng để biết nhóm đã làm gì, và đã có kết luận gì.

    Lưu ý:
  • Toàn bộ quá trình điều tra này không nhất thiết phải diễn ra ở trên lớp. Thầy cô có thể hướng dẫn để HS tự thực hiện ở nhà, hoặc sau giờ học.
  • Ở thời điểm này, HS đã quen hơn với việc tự nghiên cứu/điều tra, đo đó thầy cô chỉ nên đóng vai trò định hướng cho HS. Phần lớn các tiết học HS sẽ làm việc theo nhóm; thầy cô chỉ cần đưa ra một số hướng dẫn ban đầu, sau đó đi xung quanh lớp để xác định những nhóm đang gặp khó khăn và hỗ trợ những nhóm đó kịp thời.
  • Cần lưu ý rằng không phải lúc nào cộng đồng mà HS định phục vụ cũng dễ tiếp cận (để điều tra nhu cầu), và không phải lúc nào HS cũng thu thập được đủ thông tin mà mình cần. Trong những trường hợp này, HS có thể sẽ không thật sự chắc chắn về kết quả điều tra của mình, dẫn tới việc khó kết luận rằng cộng đồng mình chọn có nhu cầu thiết thực hay không.

    Vậy, các nhóm HS nên làm gì?

    Nếu nhóm HS không có khả năng tiếp cận/liên hệ trực tiếp với cộng đồng mình định phục vụ để điều tra nhu cầu: Các em có thể tham khảo ý kiến/thông tin từ những nguồn khác. Có được ý kiến/phản hồi trực tiếp từ cộng đồng thì rất tốt, nhưng không có thì cũng không sao. Tùy vào điều kiện/khả năng của nhóm HS, những nguồn khác có thể tham khảo là: ý kiến của người thân với HS, chuyên gia, các bài báo/tài liệu chính thống, v.v.

    Nếu nhóm HS đã thực hiện điều tra, nhưng dữ liệu không thật sự tốt, hoặc không đủ để đưa ra kết luận (nhu cầu có thiết thực hay không), các em nên:

    • Kiểm chứng lại thông tin bằng cách hỏi ý kiến người khác, hoặc tham khảo các nguồn thông tin khác (trong thời gian Chương trình cho phép điều tra).
    • Nếu HS vẫn không chắc chắn/không tự đưa ra được kết luận, thầy cô sẽ là người có tiếng nói cuối cùng. Thầy cô sẽ quyết định nhu cầu của cộng đồng "có vẻ" thiết thực hay không, dựa trên những thông tin nhóm HS đã tự tìm hiểu được. HS chỉ có thể làm các bước tiếp theo nếu được thầy cô xác nhận.

    Dù điều tra nhu cầu của cộng đồng rất quan trọng, Chương trình GCED vẫn tạo điều kiện để cho HS "thử" và "sai" trong việc này. Kể cả trong trường hợp HS đã điều tra nhu cầu của cộng đồng, và phát hiện ra nhu cầu này không thật sự thiết thực như mình nghĩ khi triển khai Dự án (trong Chương 5), thì HS vẫn có thể rút ra được bài học cho bản thân từ đây. Các em sẽ nhận ra Dự án của mình chưa hiệu quả vì những lý do gì (không có đủ dữ liệu để kết luận, không có đủ thời gian điều tra, v.v.), từ đó rút kinh nghiệm để cải thiện cho những Dự án tiếp theo (dù triển khai trực tiếp hay online).

    Xác định liên kết giữa Truy vấn cá nhân và Dự án Hành động

    Ý nghĩa của việc xác định liên kết

    Trên lý thuyết, Truy vấn cá nhân của mỗi HS trong nhóm (ở Chương 2) sẽ có những khía cạnh, đặc điểm giống nhau nhất định. Đồng thời, Dự án Hành động của nhóm sẽ là tổng hợp của tất cả kiến thức, mối quan tâm & tò mò của mỗi HS (được thể hiện trong Truy vấn Cá nhân). Dù nhóm đó có triển khai Dự nào thế nào đi nữa, từng HS vẫn sẽ được thực hành/trải nghiệm trên những kiến thức mà mình đã học.

    Tuy nhiên, trên thực tế thì một nhóm vẫn có thể có nhiều HS với những mối quan tâm khác nhau, và nền tảng kiến thức/khả năng khác nhau. Do đó, cần phải bảo đảm Dự án sau này của các nhóm thật sự bổ trợ được cho việc học, duy trì tính liền mạch của việc học GCED.

    Việc xác định được liên kết giữa Truy vấn Cá nhân và Dự án Hành động là yêu cầu bắt buộc thứ hai để thầy cô phê duyệt Dự án Hành động của từng nhóm HS. Nếu có bất cứ HS nào không xác định được những gì mình sắp làm sẽ bổ trợ như thế nào cho những gì mình đã học, thầy cô cần yêu cầu HS làm lại bước này trước khi phê duyệt Dự án.

    Lưu ý:
    Một số dự án mang tính từ thiện (quyên góp, ủng hộ của cải vật chất) có thể mang lại lợi ích cho cộng đồng, tuy nhiên giá trị học tập cho HS thường rất ít. Những dự án dạng này không được khuyến khích, vì GCED mong muốn HS học qua phục vụ, không phải học để phục vụ.

    Nếu HS có ý định thực hiện việc từ thiện, thầy cô cần đặc biệt lưu ý về việc yêu cầu HS chứng minh liên kết với Truy vấn Cá nhân của mình. Thầy cô có thể hòi: "Làm từ thiện thì em sẽ học được gì liên quan tới Chủ đề trọng tâm? Truy vấn cá nhân của em sẽ được mở rộng như thế nào?"

    Cách xác định liên kết

    Ở bước này, HS đã điều tra xong về nhu cầu của cộng đồng, và đã biết được mình sẽ phục vụ nhu cầu gì của cộng đồng đó. Ngoài ra, các em cũng có Truy vấn cá nhân của riêng mình (sản phẩm của Chương 2), trong đó có nêu rõ những điều em thắc mắc & câu trả lời của em về một khía cạnh nhất định của Chủ đề trọng tâm.

    Tiếp theo, HS sẽ cần làm một số việc sau:

    • Với HS nhỏ (lớp 1-5): Các em cần liệt kê, và có thể giải thích một số khía cạnh đơn giản mà em mong muốn học hỏi/kiểm chứng thông qua Dự án Hành động. Những khía cạnh này phải liên quan tới Truy vấn cá nhân của các em.
    • Với HS lớn hơn (từ lớp 6 trở lên): Cũng yêu cầu tương tự, nhưng những khía cạnh này có thể phức tạp hơn. Ngoài ra, HS cần phải lên được kế hoạch cụ thể để tự học hỏi/kiểm chứng những thông tin này.

    Ví dụ:

    Câu hỏi truy vấn Câu trả lời truy vấn Chủ đề Dự án Hành động Những điều HS muốn học hỏi/kiểm chứng (tức liên kết giữa Truy vấn và Dự án)
    Xã hội Việt Nam hiện đại (từ 1980 cho tới nay) có tồn tại bất bình đẳng giới tính không?

    Nếu có, các nguyên nhân lớn nhất dẫn tới hiện tượng này là gì?

    Có tồn tại sự bất bình đẳng. Nguyên nhân là:
    • Lý do A
    • Lý do B
    • Lý do C
    Giảm thiểu sự phân biệt giới tính tại các gia đình ở quận Hai Bà Trưng (khu vực sống của đa số HS trong nhóm)
    • Nguyên nhân của việc phân biệt giới tính trong gia đình Việt Nam nói chung, và ở khu em sống nói riêng là gì?
    • Nên nhìn nhận vai trò của phụ nữ trong gia đình như thế nào?
    • Lý do A (dẫn tới sự bất bình đẳng) có còn tiếp diễn ở thời điểm hiện tại không? Nếu không, vì sao?

    Lập kế hoạch cho Dự án

    Ý nghĩa của việc lập kế hoạch cho dự án

    Nếu không có kế hoạch, HS sẽ không thể thực hiện được Dự án Hành động một cách hiệu quả. Thầy cô cũng không thể đánh giá được các em HS có đang bám sát vào định hướng ban đầu mà nhóm đã đề ra hay không.

    Nội dung của kế hoạch Dự án

    Lưu ý:
    Đối với K1-3, HS sẽ không có đủ khả năng để tự lập kế hoạch cho nhóm mình. Do đó, thầy cô sẽ phải lập giúp kế hoạch cho HS, trong đó nêu rõ trách nhiệm & công việc cần làm của từng thành viên một.


    Tham khảo những nội dung cần thiết trong bản kế hoạch ở bên dưới


    Ở bước này, HS đã biết mình sẽ giải quyết vấn đề gì, cho ai, và làm như thế nào (từ việc điều tra). Ngoài ra, HS cũng đã có mục tiêu riêng cho bản thân mình, thông qua việc xác định những điểm em muốn học hỏi qua Dự án của nhóm.

    Tiếp theo, HS sẽ cần lập một bản kế hoạch chi tiết, bao gồm những yếu tố sau:

    Các bước lập kế hoạch cho Dự án
    Các yếu tố cần cân nhắc Hướng dẫn thực hiện Lưu ý
    Mục tiêu Dự án (mục tiêu chung) Sau khi mỗi HS đã có được mục tiêu riêng của mình (mục tiêu học tập), cả nhóm sẽ cùng thống nhất mục tiêu chung của Dự án.


    Mục tiêu Dự án đã được HS từ Đề án, tuy nhiên đó chỉ là mục tiêu đề xuất. Ở bước này, HS sẽ cập nhật/thay đổi mục tiêu sau khi đã xác định được nhu cầu của cộng đồng.

    Tùy theo độ tuổi của HS, mà yêu cầu cho mục tiêu này có thể sẽ khác nhau. Chi tiết tham khảo trong Khung Chương trình của từng lớp.


    VD: Lớp 1 chỉ cần mục tiêu rõ ràng, thực tế, tuy nhiên HS lớp 8 phải đặt được mục tiêu mang tính SMART cho Dự án của mình.

    Hình thức phục vụ cộng đồng HS chọn ít nhất một trong bốn hình thức phục vụ sau:
    • Trực tiếp: Dự án có ảnh hưởng/tác động trực tiếp đến cộng đồng mà nhóm chọn,.
    • Gián tiếp: Dự án mang lại lợi ích cho một cộng đồng, tuy nhiên người thực hiện không cần có mặt/tác động trực tiếp tới cộng đồng đó.
    • Tuyên truyền: vận động hành lang, tuyên truyền.
    • Nghiên cứu: Tìm thông tin, giải pháp cho một vấn đề sau đó gửi thông tin đến một tổ chức có liên quan đến cộng đồng/ đối tượng mà đề tài của nhóm hướng đến.


    Xem ví dụ về 4 hình thức này tại đây: https://uca.edu/servicelearning/types/


    Có thể kết hợp nhiều hơn một hình thức phục vụ, tùy theo khả năng/điều kiện của nhóm. VD: HS nghiên cứu để tìm ra giải pháp cho một cộng đồng, sau đó đi hành động trực tiếp đẻ phục vụ cộng đồng đó.

    Đối với những hình thức phục vụ yêu cầu HS phải ra khỏi khuôn viên trường học, thầy cô cần có phương án để đảm bảo an toàn cho HS, đồng thời cần xin phê duyệt của BGH/xin ý kiến PHHS trước khi triển khai.


    Tham khảo tài liệu này (LINK) để biết một số công việc cần chuẩn bị khi HS có Dự án diễn ra bên ngoài Vinschool

    Xác định hiện trạng & các nguồn lực cần thiết HS cần thực hiện những việc sau:
    • Xác định hiện trạng: cả nhóm đang có gì, và cần làm những gì để đạt được mục tiêu dự án.
    • Xác định các nguồn lực cần thiết: Nhóm cần những nguồn lực gì (năng lực/khả năng của các thành viên, tiền bạc, thời gian, sự giúp đỡ từ bên ngoài, v.v.)
    Đặc biệt chú ý đến nguồn lực kiến thức, kỹ năng, phẩm chất của mỗi thành viên trong nhóm. HS cần nhận ra rằng trước khi tìm tới các nguồn lực bên ngoài, nhóm cần tận dụng nguồn lực có sẵn trong nhóm trước.


    Nếu nhóm cần xin hỗ trợ từ phía GV, Nhà trường hay các đối tác bên ngoài, nhóm nên chủ động nêu yêu cầu của mình cho GV nắm. Nếu hợp lý, thầy cô có thể giúp HS xin hỗ trợ, hoặc để HS tự chủ động việc này (nếu là HS lớn)

    Phương pháp kiểm chứng HS cần xác định một số cách thu thập thông tin để kết luận mức độ hiệu quả của dự án, dựa trên những mục tiêu đã đề ra. Một số cách gợi ý:
    • Hỏi ý kiến đánh giá của những người khác (GV, các bạn khác, v.v.).
    • Phỏng vấn trực tiếp cộng đồng được phục vụ.
    • Tự viết bài phân tích về những thay đổi của cộng đồng sau khi được phục vụ.

    Dù là cách nào đi nữa, HS cũng cần lưu lại quá trình triển khai Dự án của nhóm mình & bản thân (sẽ được đề cập thêm ở Chương 5)

    Yêu cầu dành cho HS sẽ khác nhau, tùy theo độ tuỏi/khả năng của các em:


    VD:

    • Với HS nhỏ (lớp 1-5): Nếu chọn cách hỏi ý kiến của người khác, các em có thể chỉ cần hỏi 1-2 người có thể tin cậy được
    • Với HS lớn hơn (từ lớp 6 trở lên): Cũng cách này, thầy cô có thể yêu cầu các em tham khảo ý kiến của nhiều người đa dạng hơn, và có thể kết hợp với những cách kiểm chứng khác.
    Cách quản lý/theo dõi tiến độ dành cho HS (Không phải cho GV) Một số cách gợi ý:
    • Nhờ GV lưu lại quá trình làm việc của mình.
    • Cả nhóm thảo luận, sau đó tự lưu lại bằng chứng làm việc của nhóm.
    • Cả nhóm tự thảo luận, sau đó báo cáo trực tiếp cho nhóm trưởng. Nhóm trưởng sẽ lưu lại quá trình này, và sẽ chase công việc với từng thành viên.

    Có thể sử dụng các công cụ/nền tảng online để việc theo dõi & báo cáo được thuận tiện hơn.

    • Với HS nhỏ (lớp 1-5): Thầy cô có thể phải tự theo dõi tiến độ của HS, tuy nhiên cần yêu cầu HS chủ động báo cáo công việc của nhóm.
    • Với HS lớn hơn (từ lớp 6 trở lên): Thầy cô có thể để HS chọn cách quản lý/theo dõi tiến độ dự án thích hợp nhất cho nhóm. Mục tiêu là HS tự theo dõi được mình và các bạn đang làm gì, không cần GV phải hỗ trợ/can thiệp nhiều.
    Phân công công việc khi triển khai HS cần xác định được các công việc cần thực hiện theo khung thời gian hợp lý, với phân công phù hợp với năng lực các thành viên. Mức độ chi tiết phụ thuộc vào lứa tuổi/khả năng của HS. Thầy cô có thể hỗ trợ HS phân công công việc, nếu HS không đủ khả năng tự làm việc này.

    Về hình thức viết kế hoạch, HS có thể tự viết ra giấy, sử dụng các công cụ online, hoặc nhờ GV tổng hợp lại những nội dung mà mình và nhóm đã thống nhất (đối với HS lớp nhỏ). Thầy cô có thể hỗ trợ nhóm trong việc xây dựng kế hoạch, tuy nhiên không nên lập toàn bộ kế hoạch cho HS.

    Việc lập được kế hoạch hành động là yêu cầu bắt buộc cuối cùng để thầy cô phê duyệt Dự án Hành động của từng nhóm HS. Dựa vào bản kế hoạch này, thầy cô sẽ biết được Dự án Hành động của mỗi nhóm có đủ rõ ràng và khả thi hay không

    Liên kết với các đối tác bên ngoài

    Mong đợi của GCED là HS có thể tự chủ động tìm kiếm những kết nối bên ngoài để cùng cộng tác, hướng tới việc giải quyết những vấn đề liên quan tới Chủ đề trọng tâm. Nếu HS không đủ khả năng tự tìm kiếm đối tác, nhưng thầy cô thấy rằng việc cộng tác có thể giúp ích rất nhiều cho Dự án/việc học tập của HS, thầy cô có thể hỗ trợ HS trong việc tìm kiếm.

    Dưới đây là một số gợi ý để tìm kiếm đối tác hỗ trợ cho Dự án Hành động của HS:

    Background của đối tác Đối tác là, hoặc đến từ một tổ chức uy tín ở Việt Nam/trên thế giới. Đối tác có hiểu biết, kinh nghiệm và chuyên môn về Công dân Toàn cầu nói chung, cũng như dự án của HS nói riêng.
    Khả năng hỗ trợ cho Dự án của HS Đối tác có thể hỗ trợ cho GV về nhiều mặt (nhân lực thực hiện dự án, hướng dẫn từ chuyên gia, quảng bá, v.v.), và Dự án của HS được hưởng lợi từ sự hỗ trợ này.

    Không quyên góp, ủng hộ bằng tiền mặt - chỉ có mối quan hệ và sự cộng tác

    Khả năng hỗ trợ đối tác Đối tác có rất nhiều nhu cầu mà Vinschool và thầy cô/HS có thể đáp ứng.

    Không chọn những đối tác yêu cầu chi phí hỗ trợ, hoặc đòi hỏi quá nhiều, không phù hợp với điều kiện thực tế của Nhà trường & HS.

    Địa điểm thực hiện Dự án Đối tác có thể hỗ trợ Dự án tại địa điểm HS đề xuất, hoặc gợi ý một địa điểm khác phù hợp với điều kiện thực tế của HS & thầy cô.

    Lưu ý: Địa điểm này phải an toàn cho HS. Có thể đưa bảo vệ của trường đến địa điểm này để làm một báo cáo đánh giá, nhận xét chi tiết.

    Thời gian cộng tác Có thể linh hoạt đối với thời gian/ngày/giờ cộng tác. Việc liên kết với đối tác không ảnh hưởng tới việc học tập môn GCED/các môn khác của HS.
    Thông tin liên lạc Có ít nhất 2 đầu mối đại diện của đối tác liên lạc qua điện thoại di động hoặc email và khung giờ có thể liên lạc.

    Một số câu hỏi/vấn đề thường gặp trong giai đoạn này

    Mục này sẽ tổng hợp những câu hỏi/vấn đề mà thầy cô có thể sẽ gặp phải trong giai đoạn này & câu trả lời cho những câu hỏi/vấn đề này:


    1. HS vẫn còn nhỏ tuổi, năng lực chưa cao, do đó khó đáp ứng được các yêu cầu trong giai đoạn hành động (thường gặp ở HS K1-3)

    Đối với K1-3, đúng là có thể HS sẽ gặp một số khó khăn trong giai đoạn này vì trước đó chưa có nhiều kinh nghiệm hành động, hoặc vì giới hạn năng lực của lứa tuổi. Tuy nhiên, HS cũng có thể sẽ gặp khó khăn nếu như thầy cô yêu cầu HS "cứng" quá (VD: Khi tới Bài "điều tra nhu cầu cộng đồng" là bắt buộc HS phải đi tới đâu đó, gặp cộng đồng, có bảng hỏi/danh sách câu hỏi chi tiết).

    Dưới đây là một số định hướng về yêu cầu dành cho HS K1-3 trong giai đoạn này (chỉ áp dụng cho HS K1-3):

    Các yêu cầu trong giai đoạn này Định hướng cho K1-3
    Điều tra nhu cầu cộng đồng Bản chất của việc "điều tra nhu cầu cộng đồng" là để xác định xem một cộng đồng liệu có đang gặp 1 vấn đề nào đó không, và có cần giúp đỡ không.

    Do đó, không cần thiết HS phải tới tận nơi để gặp cộng đồng (nếu như HS không có khả năng di chuyển/đi lại), và cũng không cần phải tìm hiểu thông tin trên mạng (nếu như HS chưa có khả năng tìm kiếm, chọn lọc thông tin tốt). Tất nhiên, làm được thì rất tốt, nhưng những việc này sẽ phù hợp hơn với HS ở những khối lớp lớn hơn. Chắc chắn là HS không nên tự quyết định là "cộng đồng này đang gặp vấn đề, và đang cần giúp đỡ", mà vẫn nên tham khảo ý kiến bên ngoài. Và nếu như không đi tới cộng đồng được, không tự tìm hiểu thông tin trên mạng được, thì HS hoàn toàn có thể hỏi người lớn (GV, PHHS, hay bất cứ ai đó có thể cho ý kiến). Câu hỏi chỉ cần đơn giản là "theo bố mẹ/thầy cô, thì cộng đồng A có đang gặp vấn đề X không? Liệu họ có cần con giúp không?"

    Kể cả nếu như ý kiến của người lớn không phản ánh đúng thực tế (VD: HS chỉ hỏi ý kiến PHHS, và PHHS bảo là có vấn đề ở cộng đồng A, nhưng trên thực tế thì không), thì đây cũng là một bài học mà HS có thể rút ra được cho tương lai. Bài học ở đây có thể là "nên tham khảo ý kiến, nên hỏi nhiều người khác nhau để bảo đảm thông tin chính xác hơn".

    Xác định giải pháp của Dự án Hoàn toàn ổn nếu như HS chỉ đi giải quyết các vấn đề nhỏ, xảy ra xung quanh HS. Miễn sao là vấn đề có thật, và những gì HS làm sẽ mang lại lợi ích cho cộng đồng được giúp.

    VD: Vẽ poster về cách sử dụng nước sạch tiết kiệm tại nơi HS sinh sống. Giải pháp này hoàn toàn ổn, miễn sao (1) HS nhận thấy có vấn đề về ý thức/cách sử dụng nước sạch tại nơi mình sống, và (2) HS cho rằng việc vẽ poster sẽ giúp mọi người nâng cao nhận thức, từ đó sử dụng nước sạch tiết kiệm hơn.

    Xác định mục tiêu của Dự án Ở lứa tuổi này, HS chỉ cần hiểu rằng "mục tiêu" là những gì cần đạt được để Dự án được hiệu quả, mang lại lợi ích cho người khác. Không cần giải thích quá phức tạp, cũng không cần yêu cầu HS tự xác định mục tiêu. Thầy cô sẽ giao cho HS các mục tiêu cụ thể, đơn giản, phù hợp với giải pháp của HS (VD: vẽ được 2 poster về chủ đề X), và HS sẽ dùng các mục tiêu này như những cột mốc trong quá trình hành động.
    Xác định các nguồn lực cần thiết Thầy cô sẽ chủ động liệt kê các nguồn lực mà HS sẽ cần, và có thể kiếm được trong khả năng của HS (VD: sự trợ giúp của PHHS, dụng cụ, đồ dùng, v.v.). HS có thể tự chủ động tìm kiếm những nguồn lực này, hoặc thầy cô có thể hỗ trợ các em (tùy vào phân công của thầy cô).

    Lưu ý rằng mục đích của việc xác định nguồn lực là "nhìn lại xem mình đang có gì, và có thể kêu gọi/tìm kiến thêm gì trong khả năng cho phép", không phải là "kiếm các nguồn lực mới bằng mọi giá".

    Lập kế hoạch hành động Thầy cô sẽ lập kế hoạch giúp HS, trong đó nêu rõ cần làm gì, làm ở đâu, lúc nào, cần ai giúp (phân công ai làm việc gì do thầy cô quyết định). Thầy cô có thể viết kế hoạch và gửi cho HS, hoặc dặn dò HS trên lớp.

    Trong bản kế hoạch này, không nên yêu cầu HS phải tương tác, làm việc nhóm với nhau quá nhiều, nếu như thầy cô biết HS không có khả năng làm việc nhóm tốt. Thay vào đó, có thể cân nhắc việc yêu cầu HS làm việc độc lập với nhau (mặc dù vẫn là thành viên của 1 nhóm), miễn sao tất cả giúp đạt được mục tiêu chung của nhóm.

    Làm việc nhóm bên ngoài lớp học Không nên kỳ vọng tất cả HS có thể liên lạc, trao đổi với nhau bên ngoài lớp học để có thể làm việc nhóm. Nếu một nhóm không có khả năng làm việc nhóm bên ngoài lớp học, thầy cô có thể giao nhiệm vụ để từng thành viên làm độc lập với nhau, miễn sao tất cả giúp đạt được mục tiêu chung của nhóm.

    2. Dự án của nhóm HS không liên quan tới Chủ đề trọng tâm của khối lớp

    Đây là một vấn đề lớn, tuy nhiên lại xảy ra khá thường xuyên. Có thể là do HS không liên kết được những kiến thức mình đã học về Chủ đề trọng tâm thành hành động thực tế, không biết phải bắt đầu từ đâu, do đó HS muốn làm dự án nào đó dễ tiếp cận hơn. Hoặc, có thể là do trước đó HS đã có ý tưởng về dự án cộng đồng nào đó, và tin rằng chỉ cần làm gì đó giúp cho người khác là được, không quan trọng là làm gì. Dù là vì sao đi nữa, thì làm dự án mà không liên quan tới Chủ đề trọng tâm vẫn là sai định hướng của CT, và không được làm như vậy.


    Một ví dụ điển hình là các dự án về "hạn chế xả rác thải", hoặc "phân loại rác", dù cho HS có đang học về những Chủ đề trọng tâm không hề liên quan tới rác. Với những trường hợp này, giải pháp hiển nhiên sẽ là yêu cầu HS bỏ qua những ý tưởng này, sau đó nghĩ về những ý tưởng khác phù hợp hơn với Chủ đề trọng tâm. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp mà có thể tận dụng ý tưởng ban đầu và điều chỉnh lại thì sẽ phù hợp với Chủ đề trọng tâm hơn.

    Ví dụ:


    HS nhóm A thuộc K5 được học Chủ đề trọng tâm là Công lý, và có ý tưởng làm dự án là "thu gom rác thải ở khu vực X". Về bản chất, đây là một dự án đi lệch hướng của Chủ đề trọng tâm vì không có điểm gì liên quan giữa công lý (và các khía cạnh liên quan) tới việc HS nhóm A tự đi thu gom rác thải cả.


    Tuy nhiên, nếu đổi hướng dự án này thành "tuyên truyền cho người dân ở khu X để nâng cao ý thức trong việc xả rác", hoặc "đề xuất các hình thức thưởng/phạt đối với việc xả rác tại trường" thì sẽ liên quan tới khía cạnh "trật tự" và "luật lệ/quy định" của chủ đề Công lý, và như vậy là hoàn toàn chấp nhận được.

    3. Dự án của nhóm HS không có tính thực tiễn cao/không gắn với cộng đồng/chỉ mang tính hình thức

    Nếu thầy cô thấy rằng có một số dự án đang/sẽ gặp phải vấn đề này, có thể vì những dự án này có vẻ sẽ không mang lại lợi ích gì cho cộng đồng được giúp, hoặc không giúp giải quyết được vấn đề gì cả. Trong trường hợp này, thầy cô cần đặt câu hỏi ngược lại (hoặc yêu cầu HS tự đặt câu hỏi) là: Dự án này của HS đang giúp giải quyết vấn đề gì, cho ai? Việc không xác định được rõ ràng vấn đề cần giải quyết & cộng đồng muốn phục vụ sẽ dẫn tới những dự án vô nghĩa, không có nhiều giá trị (cho cả HS lẫn cộng đồng được giúp). Nếu đã xác định được vấn đề & cộng đồng hợp lý, và HS có thể góp phần giải quyết vấn đề này, thì chắc chắn là dự án của HS sẽ không mang tính hình thức nữa.

    Tất nhiên, chắc chắn không thể kỳ vọng HS nào cũng phải giải quyết triệt để vấn đề của 1 cộng đồng nào đó được, đơn giản chỉ vì HS có giới hạn về thời gian/nguồn lực/năng lực, và đây lại là những vấn đề lớn, mang tính toàn cầu. Kỳ vọng hợp lý hơn với phần lớn HS sẽ là: góp phần giải quyết 1 vấn đề cụ thể của 1 cộng đồng, mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng này. Từ khóa ở đây là "góp phần giải quyết vấn đề", và "mang lại lợi ích thiết thực".

    Ví dụ:


    HS nhóm B thuộc K10 được học Chủ đề trọng tâm là Phổ cập giáo dục chất lượng, và có ý tưởng làm dự án là "Chia sẻ về những phương pháp học tập cho những học sinh trên Tiktok". Dự này này nghe có vẻ hay, tuy nhiên làm rõ một số điểm sau:

    • Về vấn đề: Có phải vấn đề ở đây là HS nói chung chưa được tiếp cận với các phương pháp học tập hay không? Hay vấn đề là điểm số của các bạn thấp ở một vài môn nào đó, và nhóm B mong muốn cải thiện điểm số cho những môn này? Rõ ràng là "phương pháp học tập nói chung", và "phương pháp học tập tốt môn Hóa" sẽ đòi hỏi những giải pháp khác nhau, và do đó cần xác định rõ vấn đề HS muốn giải quyết là igf.
    • Về cộng đồng: HS muốn giải pháp của mình mang lại giá trị cho HS Vinschool, hay HS ở Hà Nội, hay ở trên toàn quốc? Nếu chỉ là HS Vinschool, HS có thể làm gì đó trực tiếp hơn nhiều, dễ tiếp cận hơn nhiều, thay vì làm các video TikTok mà chưa chắc đã tiếp cận được với tất cả HS Vinschool.

    3. Dự án của nhóm HS yêu cầu rất nhiều trợ giúp từ người lớn (GV gia đình, hoặc các đối tác bên ngoài)

    Ngay từ khi HS cân nhắc nguồn lực cần thiết để triển khai Dự án, HS đã cần phải cân nhắc xem Dự án này cần sự trợ giúp của ai rồi (trừ HS K1, K2, K3, 3 lứa tuổi này sẽ được GV xác định hộ). Lý do là gì sự trợ giúp của GV gia đình, các đối tác bên ngoài, hay bất cứ ai đó khác cũng được coi như một loại nguồn lực, và HS chỉ nên tìm kiếm loại nguồn lực này nếu có thể. Nếu điều kiện thực tế không cho phép, HS sẽ phải chấp nhận với việc không có được những nguồn lực này, và sẽ phải điều chỉnh lại giải pháp của mình sao cho phù hợp hơn.


    Đối với thầy cô, ngay từ khi HS đề xuất giải pháp, thầy cô cũng phải cân nhắc tới việc mình có thể hỗ trợ, theo sát các nhóm như thế nào, hoặc thậm chí là đi theo cùng HS (nếu như HS có ý định triển khai Dự án bên ngoài trường học). Tất nhiên là thầy cô sẽ phải nắm thông tin triển khai của mọi nhóm, tuy nhiên thầy cô có quyền quyết định mình sẽ theo sát HS tới mức nào. Thà rằng yêu cầu HS giảm bớt quy mô dự án để thầy cô có thể theo dõi, tư vấn, giải đáp thắc mắc của HS kịp thời, còn hơn là để HS làm những thứ quá khó, quá phức tạp mà thầy cô lại không có đủ thời gian để giúp HS.


    Nói vậy không có nghĩa là quan liệu, là giảm yêu cầu cho mọi HS để quản lý cho dễ (cho "tiện"), mà chỉ đơn thuần là để bảo đảm HS có được sự hỗ trợ tốt nhất, và có được trải nghiệm hành động hiệu quả nhất. Tốt nhất, thầy cô nên thỏa thuận với các nhóm để xác định chính xác mỗi nhóm sẽ được thầy cô hỗ trợ, theo sát tới mức nào.

    4. Dự án của các nhóm trong lớp yêu cầu phải ra ngoài, và tới những nơi hoàn toàn khác nhau, GV không quản lý được, không đảm bảo được an toàn cho HS

    Như thế nào thì được coi là "ra ngoài"? Đối với HS Tiểu học, "ra ngoài" có thể là bất cứ nơi đâu bên ngoài khuôn viên trường học. Nhưng đối với những khối lớp hơn hơn, phạm vi này có thể sẽ rộng hơn rất nhiều. Có thể là ở trong phạm vi khu phố, tới một địa điểm trong quận/thành phố, hoặc thậm chí tới một tỉnh/thành phố hoàn toàn khác.


    Vậy, có nên cho phép HS ra ngoài triển khai dự án hay không? Thầy cô hoàn toàn có thể từ chối việc ra ngoài triển khai dự án của 1 nhóm nào đó, nếu như thầy cô cảm thấy không thể đi theo, hoặc quản lý chất lượng triển khai của những nhóm này, và cũng không hoàn toàn tin tưởng khả năng của HS trong nhóm. Nếu trong lớp có nhiều nhóm muốn ra ngoài triển khai dự án, nên ưu tiên những nhóm/dự án có nhiều tiềm năng nhất. Những nhóm còn lại sẽ phải thay đổi giải pháp của mình, nếu như thầy cô không chắc chắn về việc để cho những nhóm này tự triển khai bên ngoài.


    Cần giúp HS hiểu rằng không những đây là vấn đề về sự an toàn của HS, mà còn là về việc giải pháp của HS chưa đạt yêu cầu. Giải pháp này cần phù hợp với lứa tuổi/năng lực của HS, và nếu phải triển khai ở bên ngoài mà không đảm bảo được an toàn, thì đây rõ ràng không phải một giải pháp tốt. Nếu HS muốn tới 1 thành phố khác, và có đủ tiền/thời gian để đi, tuy nhiên không thể nhờ thầy cô (hoặc PHHS, hoặc bất cứ ai có trách nhiệm), thì đây không phải một giải pháp mà HS nên làm.


    Vậy HS đi đâu thì thầy cô nên cân nhắc đi theo cùng? Sẽ có 3 trường hợp sau mà thầy cô có thể có nhu cầu đi theo HS:

    • Để đảm bảo an toàn cho HS: áp dụng cho bất cứ nơi nào bên ngoài trường (đối với HS nhỏ), tới những nơi xa, lạ, không rõ mức độ an toàn (đối với HS trung học trở lên)
    • Để hướng dẫn, tư vấn cho HS ngay tại chỗ: ít xảy ra, nhưng sẽ có trường hợp HS muốn tới khảo sát một cộng đồng nào đó, và HS muốn thầy cô đi cùng để nghe HS thực hiện khảo sát, hoặc để thầy cô trực tiếp tư vấn cách khảo sát.
    • Để bảo đảm HS làm việc hiệu quả: áp dụng cho những nhóm mà thầy cô nghi là sẽ không làm việc được với nhau, không triển khai Dự án hiệu quả nếu như không có ai giám sát.


    Dù thế nào đi nữa, thầy cô vẫn là người có tiếng nói cuối cùng trong việc quyết định một nhóm có thể đi đâu, làm gì.

    5. Dự án của nhóm HS đòi hỏi quá nhiều thời gian/tiền bạc/các nguồn lực khác để thực hiện

    Nếu thầy cô thấy rằng có nhóm HS đang gặp phải vấn đề này, thầy cô nên yêu cầu HS thay đổi lại định hướng của mình. Có thể là chọn vấn đề khác, thay đổi cộng đồng khác, hoặc thay đổi giải pháp của nhóm.


    Lý do là vì thầy cô, cũng như HS sẽ phải rất thực tế về những gì mình đang có. Nếu như dự án đòi hỏi quá nhiều từ phía HS, chắc chắn là do HS đã tính toán không kỹ, hoặc không bám theo những định hướng từ Chương trình. Cân nhắc các trường hợp sau:*Nếu không đủ thời gian để triển khai: Trong phần lớn trường hợp, nếu như HS không thể triển khai xong Dự án trong vòng 6-7 tiết (mà CT đã quy định), có nghĩa là giải pháp của HS không đủ khả thi ngay từ đầu. Các trường hợp làm dài hơn 6-7 tiết chỉ nên được coi là trường hợp ngoại lệ, và thầy cô chỉ nên cho phép những trường hợp như thế này nếu tin vào năng lực của nhóm HS đó.

    • Nếu không đủ tiền bạc để triển khai: GCED không yêu cầu HS phải quyên góp/thu thập tiền bạc để có thể triển khai Dự án; thầy cô và HS phải tự quyết định xem tiền bạc có phải yếu tố quan trọng, bắt buộc phải có đối với Dự án không. Nếu câu trả lời là có, nhưng Dự án của HS không kiếm/thu thập đủ số tiền cần thiết, có lẽ là vì HS đã quá lạc quan, và nên nghĩ tới giải pháp khác hợp lý hơn
    • Không đủ các nguồn lực khác (công cụ, kỹ năng, v.v.): Tương tự như việc thiếu tiền bạc, HS sẽ phải sử dụng những gì mình đang có, không cần thiết phải tìm kiếm những thứ quá cao siêu. Nếu một Dự án đòi hòi quá nhiều nguồn lực từ bên ngoài (mà HS không có khả năng kêu gọi trong thời gian cho phép), đây có lẽ không phải một Dự án hợp lý. Mục đích của việc xác định nguồn lực là "nhìn lại xem mình đang có gì, và có thể kêu gọi/tìm kiến thêm gì trong khả năng cho phép", không phải là "kiếm các nguồn lực mới bằng mọi giá".

    Nếu gặp những trường hợp như thế này, thầy cô có thể yêu cầu HS chọn vấn đề khác để giải quyết, thay đổi cộng đồng muốn phục vụ, hoặc thay đổi giải pháp của nhóm.


    Chương 1: Khám phá Chủ đề trọng tâm qua 5 Lăng kính - Đầu tiên, ở Lăng kính 1, HS sẽ học về khái niệm “Nghèo” và thực trạng của tình trạng nghèo trên thế giới.


    - Tiếp theo ở Lăng kính 2, HS sẽ hiểu những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng nghèo và một số giải pháp phổ biến hiện nay để giải quyết tình trạng nghèo. Bên cạnh đó, HS cũng sẽ hiểu rằng các giải pháp đó có ưu và nhược điểm gì và vì sao các giải pháp đó vẫn chưa thể giải quyết tình trạng nghèo hiện nay.


    - Sau đó tới Lăng kính 3, HS sẽ biết về một số quan điểm trái chiều về nghèo như quan điểm đổ lỗi cho người nghèo hoặc những áp lực vô hình về việc phải tự thoát nghèo. Nếu GV muốn giới thiệu các quan điểm khác ngoài gợi ý trong chương trình, thì cần đảm bảo thông tin được trích dẫn từ các nguồn đáng tin cậy, nội dung chia sẻ trên lớp được cân nhắc để phù hợp với lứa tuổi và bối cảnh xã hội, đặc biệt là không quá khó hiểu đối với HS.


    - Tiếp theo ở Lăng kính 4, HS sẽ thực hành giải quyết vấn đề nghèo bằng việc áp dụng một quy trình giải quyết vấn đề đơn giản gồm 4 bước: (1) Tìm hiểu về vấn đề & đối tượng/cộng đồng đang chịu ảnh hưởng (2) Phát triển ý tưởng (3) Triển khai giải pháp và (4) Đánh giá giải pháp. Lưu ý: Ở Chương 1, Lăng kính 4 chỉ mang ý nghĩa giúp cho HS hiểu quy trình giải quyết vấn đề trong thực tế sẽ diễn ra như thế nào, HS không cần phải thực sự làm gì ở phần này cả. Do đó, GV không nên yêu cầu HS dành quá nhiều thời gian để thực hiện đầy đủ các bước trong quy trình hoặc cần phải có 1 kế hoạch hoàn chỉnh.


    Chẳng hạn, HS xác định đối tượng phục vụ là trẻ em nghèo ở khu vực miền núi, thì trước đó HS cần phải xác định được khu vực cụ thể HS muốn tìm hiểu là ở đâu, cuộc sống của trẻ em ở khu vực đó bị ảnh hưởng bởi nghèo như thế nào, v.v. Sang tới bước 2, HS cần tự nêu được một số ý tưởng của bản thân sau khi đã cân nhắc nhu cầu thiết thực của đối tượng và những nguyên nhân dẫn tới vấn đề. Chuyển sang bước 3, HS sẽ không thực sự đi triển khai giải pháp, nhưng GV vẫn cần hỏi để HS nói rõ mình sẽ cần chuẩn bị những việc gì để ý tưởng được thành công và tự đặt ra một số mục tiêu đơn giản để xác định tính thành công của ý tưởng. Tới bước 4, HS cần nêu được cách thu thập bằng chứng để đánh giá mức độ hiệu quả, và tác động thực tế của ý tưởng. Tuy HS đã được giới thiệu một số cách đánh giá từ những khối lớp trước nhưng GV vẫn có thể nhắc lại để HS nhớ.


    - Cuối cùng ở Lăng kính 5, HS sẽ được học về cách các tổ chức/cá nhân có xuất xứ đa dạng đang hoạt động để giải quyết vấn đề nghèo trên thế giới, từ đó rút ra bài học cho bản thân và tự mình đưa ra một kế hoạch cộng tác với những người xung quanh để cùng nhau giải quyết tình trạng nghèo. Lưu ý: Cũng giống như phần trước, Lăng kính 5 của Chương 1 chỉ mang ý nghĩa giới thiệu một số cách thức cộng tác thường gặp trong cuộc sống cho HS, vì thế GV không nên yêu cầu HS nói quá rõ ý tưởng cộng tác của mình, mà chỉ cần HS chọn ít nhất 1 cách phù hợp để kêu gọi sự cộng tác và giải thích được bản thân sẽ thực hiện cách đó như thế nào.


    Ví dụ: HS chọn cách “Tự đứng ra kêu gọi” các bạn trong lớp cộng tác thực hiện một ý tưởng cùng mình, thì HS cần phải giải thích rằng HS dự định sẽ đi quanh lớp và nói chuyện với các bạn về vấn đề mà HS quan tâm và ý tưởng giải quyết vấn đề mà HS đang nghĩ tới là gì, v.v.

    Chương 2: Xây dựng & Trình bày Truy vấn Cá nhân - Ở chương 2, HS sẽ bắt đầu đi sâu vào việc tự nghiên cứu về chủ đề trọng tâm bằng cách thực hiện các bước xác định vấn đề, đặt câu hỏi, thu thập thông tin, v.v. để hoàn thành bài Truy vấn Cá nhân của bản thân. Đây là mốc đánh giá cá nhân đầu tiên trong năm học của HS.


    Chẳng hạn, HS có câu hỏi "Việc nghèo ảnh hưởng đến trẻ em vùng cao Việt Nam như thế nào?, có nghĩa là HS đang quan tâm đến những khó khăn mà trẻ em vùng cao Việt Nam gặp phải do nghèo. Để trả lời được câu hỏi này, HS cần thu thập, phân tích, so sánh các thông tin và sử dụng hiểu biết cá nhân để có thể đưa ra câu trả lời phù hợp. Một số thông tin mà HS có thể tìm là: ảnh hưởng của việc nghèo tới cuộc sống của trẻ em vùng cao ở khía cạnh học tập/hoặc điều kiện học tập, khám chữa bệnh, quần áo ấm, bình đẳng xã hội, v.v. HS có thể sử dụng các phương pháp như tra cứu internet, hỏi người thân, tìm kiếm trên các trang báo, quan sát từ thực tế hoặc tiến hành khảo sát để có thông tin. Dù HS vẫn phải tự xác định nguồn thông tin, trong trường hợp có HS quá kém và không thể tự mình nghĩ ra câu hỏi và biết cách tìm nguồn thông tin thì GV có thể gợi ý trực tiếp cho HS. Miễn sao, HS có thể hoàn thành đầy đủ các yêu cầu bài TVCN là trình bày dưới dạng một đoạn văn/bảng thông tin hoàn chỉnh và thể hiện được việc HS đã nghiên cứu, sắp xếp các bằng chứng/dữ liệu hợp lý.


    - Tiếp theo, HS thành lập nhóm với các HS khác trong lớp để cùng thực hiện Dự án Hành động sẽ diễn ra trong học kỳ 2.


    HS có thể tự mình tạo nhóm sau khi đã xác định được các bạn khác có cùng mối quan tâm với mình. Hoặc GV có thể giúp HS tạo nhóm bằng cách dựa vào các thông tin cơ bản về TVCN của mỗi HS để xác định những điểm tương đồng trong TVCN của HS và xếp HS vào nhóm theo những điểm tương đồng đó. Lưu ý: Điểm tương đồng trong TVCN được coi là quan trọng nhất khi cân nhắc tạo nhóm, những yếu tố khác như năng lực, tính cách, khả năng cộng tác của các thành viên, v.v. chỉ nên được cân nhắc sau.


    Ví dụ: 2 HS làm TVCN có nội dung khác nhau là “Nguyên nhân gây ra vấn đề nghèo ở Hà Giang?” và “Nghiên cứu về ảnh hưởng của tình trạng nghèo tới người dân Hà Giang”, tuy nhiên 2 HS này có chung một cộng đồng muốn phục vụ  là “người Hà Giang”, do đó đủ cơ sở để xếp 2 HS vào cùng một nhóm.

    Chương 3: Chuẩn bị cho Dự án Hành động Sau khi đã thành lập nhóm, tới đây HS mới thực sự bắt tay chuẩn bị cho Dự án hành động. Các bước chuẩn bị chính gồm có:


    (1) Xác định vấn đề và đối tượng/cộng đồng mà dự án hướng tới. Để xác định vấn đề thực sự tồn tại và đối tượng/cộng đồng mà HS hướng tới có nhu cầu giúp đỡ.


    Chẳng hạn sau khi thành lập nhóm, mỗi thành viên hiện đang quan tâm tới một vấn đề và đối tượng/cộng đồng riêng, do đó việc đầu tiên mà nhóm cần làm là xác định 1 vấn đề và đối tượng mà nhóm muốn hướng tới. Giả sử nhóm xác định vấn đề chung là “Tình trạng nghèo đang ảnh hưởng tới cuộc sống của trẻ em miền núi", thì tiếp theo các thành viên vẫn cần trả lời được các câu hỏi định hướng sau:

    • Vấn đề có thực sự liên quan đến Chủ đề trọng tâm hay không? Ở đây có thể kết luận là vấn đề mà nhóm HS chỉ ra đã “có” liên quan đến Chủ đề. Tuy nhiên, GV vẫn cần truy vấn HS để làm rõ biểu hiện của vấn đề này là gì. Nếu nhóm HS nói cụ thể là “tình trạng nghèo ảnh hưởng tới việc được đến trường của trẻ em” thì nhóm đang định hướng vấn đề đúng trọng tâm. Nhưng nếu nhóm HS không trả lời được hoặc nói rằng “định kiến về vùng miền khiến trẻ em miền núi khó kết bạn” thì vấn đề này không thực sự liên quan đến Chủ đề và GV cần có can thiệp kịp thời.
    • Vấn đề chính xác là gì? GV tiếp tục hỏi để HS xác định rõ hơn trọng tâm vấn đề và cộng đồng của nhóm. Tránh việc HS đưa ra ý tưởng chung chung như “giúp trẻ em miền núi có thêm cơ hội học tập”, mà bỏ qua vấn đề thực sự ở đây là trường học quá xa nơi trẻ em sống, điều kiện học tập khó khăn hoặc vì gia cảnh khó khăn nên phụ huynh muốn con cái ở nhà phụ giúp công việc thay vì đi học, v.v. GV cần lưu ý để HS không đưa ra các vấn đề chung chung như là “không có tiền”. Từ đó HS tiếp tục xác định được dựa trên khả năng của mình, nhóm sẽ chỉ tập trung giải quyết 1 vấn đề duy nhất, giả sử đó là vấn đề liên quan đến điều kiện học tập.
    • Vấn đề có thực sự tồn tại không? Để trả lời được câu này, nhóm cần phải xác định được khu vực mà mình muốn thực hiện dự án từ trước, giả sử như khu vực miền núi phía Bắc - giả sử là Hà Giang. Tới đây, HS cần tìm hiểu trên thực tế trẻ em sống ở Hà Giang có đang gặp phải vấn đề “ảnh hưởng bởi tình trạng nghèo tới điều kiện học tập hiện tại” không. GV cần hướng dẫn HS trả lời được vấn đề này có thực sự đang tồn tại hay không, và vì sao HS biết được điều đó dựa vào việc đưa ra các bằng chứng/dữ liệu thực tế hoặc tham khảo ý kiến chuyên gia, v.v. Nếu GV nhận thấy vấn đề mà HS tìm được không tồn tại/hoặc không thực sự xảy ra ở khu vực mà HS nói thì cần phải định hướng lại cho HS.
    • Vấn đề có lớn quá hoặc nhỏ quá không? HS cần trả lời được câu hỏi này để chắc chắn vấn đề này nhóm có thể giải quyết được. Ví dụ, nếu nhóm HS nói muốn “xây dựng cơ sở vật chất đủ chất lượng học tập cho trẻ em nghèo ở Hà Giang” thì đây là một vấn đề nan giải, khả năng cao là HS sẽ không thể nào giải quyết triệt để được ngay, và do đó GV cần giúp HS định hướng lại. Thay vào đó, GV có thể gợi ý cho HS một vấn đề vừa sức hơn là “Trẻ em nghèo ở Hà Giang chưa có đủ đồ dùng học tập”.


    Đồng thời, GV cần dặn kỹ các nhóm nên chuẩn bị ít nhất 2 ý tưởng khả thi và đều phải trả lời 4 câu hỏi trên để làm rõ vấn đề và đối tượng/cộng đồng, từ đó có cơ sở chọn ra 1 giải pháp tốt nhất.


    (2) Chuyển sang bước thứ hai, nhóm HS sẽ cùng nhau tìm hiểu để học hỏi từ các giải p

    VD: Nếu HS tìm hiểu được tổ chức A đang có dự án giúp đỡ trẻ em nghèo các tỉnh miền núi ở Việt Nam trong vòng 10 năm. HS có thể:

    • Học hỏi về cách tổ chức A chọn đối tượng để giúp đỡ. Tổ chức A chọn đối tượng là người nghèo ở những nơi xa xôi, hẻo lánh nhất Việt Nam, hoặc những nơi ít nhận được hỗ trợ nhất.
    • Hoặc, liên hệ với tổ chức A để trực tiếp ủng hộ tiền bạc/vật dụng cho những nỗ lực của tổ chức này.
    • Hoặc, kêu gọi mọi người ủng hộ tổ chức A trên mạng xã hội.
    • Hoặc, triển khai 1 giải pháp nào đó có thể bổ trợ cho những nỗ lực của tổ chức A


    Nếu HS không thể tự tìm được giải pháp nào có sẵn, GV có thể chuẩn bị từ trước cho nhóm HS, sau đó gợi ý (những) giải pháp này để HS tìm hiểu


    (3) Sau khi đã hiểu rõ vấn đề và đặc điểm của đối tượng/cộng đồng và một số giải pháp thực tế, nhóm thống nhất 1 ý tưởng phù hợp, và cùng xác định các công việc cần chuẩn bị và nguồn lực cần thiết. GV cần nhắc để HS lưu ý ý tưởng phải đáp ứng các yếu tố sau: Nhu cầu thiết thực của đối tượng/cộng đồng; tính vòng lặp của vấn đề và các giải pháp đã được triển khai.


    Chẳng hạn nhóm hiện có ý tưởng “Quyên góp đồ dùng học tập, sách vở cho trẻ em nghèo ở Hà Giang”. GV cần đặt câu hỏi để HS làm rõ các yếu tố của ý tưởng, lý tưởng nhất là HS có thể trả lời các ý như:

    • Nhu cầu thiết thực của đối tượng/cộng đồng: HS đã biết ý tưởng này đã từng được thực hiện ở Hà Giang nên khả năng là trẻ em ở đây không cần thêm đồ dùng học tập nữa. Do đó ý tưởng “quyên góp đồ dùng học tập” có thể sửa lại thành “quyên góp tiền vào quỹ khuyến học của khu vực” để chính quyền địa phương có thể đầu tư vào cơ sở vật chất ở trường học.
    • Tính vòng lặp của vấn đề: HS hiểu rằng việc quyên góp 1 lần chắc chắn không đủ nhưng ít nhất sẽ hỗ trợ được các em nhỏ trong thời gian trước mắt.
    • Các giải pháp đã được triển khai: HS có tìm hiểu về một số tổ chức chuyên ủng hộ/giúp đỡ người nghèo, và HS thấy tổ chức Y thường giúp đỡ bằng cách ủng hộ tiền để giúp đỡ trẻ em nghèo. HS thấy cách này hay, và muốn học hỏi theo.


    Cuối cùng sau khi cân nhắc các yếu tố, ý tưởng ban đầu của HS chuyển thành “Gây quỹ ủng hộ cho quỹ khuyến học để giúp đỡ trẻ em nghèo ở Hà Giang có điều kiện học tập tốt hơn”.


    Một lần nữa, GV cần nhắc HS phải phân tích đầy đủ các yếu tố trên cho ít nhất 2 ý tưởng khả thi, và xác định ra 1 giải pháp tốt nhất. Nếu nhóm quá kém và không thể tự tìm ý tưởng, GV nên chuẩn bị sẵn và giao luôn cho HS làm.


    (4) Cuối cùng, nhóm hoàn thiện bản kế hoạch hành động chung.


    Các nhóm sẽ lập một bản kế hoạch hành động (KHHĐ) đơn giản, trong đó nói rõ các thành viên trong nhóm sẽ làm gì, thời gian bắt đầu/kết thúc, nguồn lực cần thiết, mục tiêu cụ thể cho việc triển khai các công việc này, v.v. KHHĐ cần phải được GV nhận xét, và phê duyệt trước khi các nhóm triển khai Dự án. Tiếp đó HS sẽ xác định cách thu thập dữ liệu/bằng chứng để đánh giá Dự án (cho nhóm) và để học hỏi thêm cho Truy vấn Cá nhân (cho mỗi cá nhân). Nếu HS không tự xác định được, GV có thể gợi ý một số nội dung quan trọng như phân công công việc như thế nào, nguồn lực mà HS có thể dùng là gì, v.v.


    Cuối cùng, HS sẽ hoàn thiện kế hoạch hành động (sao cho đầy đủ nội dung yêu cầu). GV cũng sẽ dựa vào từng nội dung trong Hồ sơ Dự án để phản hồi & nhận xét cho mỗi nhóm, bảo đảm tất cả nhóm trong lớp đều tương đối sẵn sàng trước khi thực hiện dự án.


    Chẳng hạn, nhóm HS đặt mục tiêu quyên góp 10 triệu VND cho quỹ khuyến học ở Hà Giang nhưng dựa theo những gì HS viết trong KHHĐ, GV nhận thấy HS không có sẵn nhiều nguồn lực, kế hoạch gây quỹ cũng có khả năng mất nhiều thời gian thì GV nên đưa ra lời khuyên để HS giảm mục tiêu xuống hoặc thay đổi cách thức gây quỹ.

    Chương 4: Triển khai Dự án Hành động Trong 6 tiết (3 tuần) tiếp theo, HS sẽ thực hiện Dự án Hành động (có thể ở trong hoặc ngoài phạm vi Vinschool)


    Ví dụ, HS chỉ thực hiện truyền thông bằng poster trên mạng xã hội thì hoàn toàn những công việc này có thể thực hiện ở trên lớp. Tuy nhiên nếu Dự án của học sinh là “Bán đồ ăn để gây quỹ ủng hộ cho quỹ khuyến học để giúp đỡ trẻ em nghèo ở Hà Giang”, chắc chắn HS cần thực hiện các công việc ngoài lớp học. Thời gian trên lớp, HS có thể dùng để lên thực đơn, tìm hiểu cách nấu, liên hệ với các bên cùng cộng tác, phân công công việc cụ thể cho buổi nấu ăn và tặng suất ăn, v.v.


    Lưu ý: Đối với những nhóm chọn làm dự án ở bên ngoài Vinschool, GV cần hỗ trợ các nhóm làm đơn xin phép nhà trường và xin phép chính quyền địa phương nơi dự án diễn ra và luôn cần đảm bảo các nguyên tắc an toàn như đã thống nhất.


    Nếu dự án kết thúc sớm hơn phân phối Chương trình, GV cần đặt câu hỏi cho nhóm để đảm bảo nhóm không “hấp tấp” và kết thúc dự án khi chất lượng không được đảm bảo. Còn nếu nhóm thực hiện dự án quá lâu kể cả khi đã dành nhiều thời gian làm ngoài giờ học, GV cần yêu cầu nhóm dừng lại và chuyển qua các bước tiếp theo.

    Chương 5: Suy ngẫm & báo cáo - Sau khi hoàn thiện Dự án Hành động, nhóm HS sẽ tự đánh giá mức độ hiệu quả của dự án và hoàn thiện Suy ngẫm nhóm. Để thực hiện được việc này, từ trước đó HS đã phải thu thập các bằng chứng trong quá trình triển khai dự án. Các dữ liệu/bằng chứng này chỉ đơn thuần là ghi chép về quá trình thực hiện dự án được tổng hợp trong Hồ sơ dự án (như sản phẩm, hình ảnh, số liệu thu được, câu trả lời phỏng vấn/khảo sát của cộng đồng, ý kiến đánh giá của chuyên gia, v.v), dựa vào đó HS có thể đối chiếu với những mục tiêu nhóm đã đặt ra từ trước để tự đánh giá hai yếu tố “triển khai hiệu quả” và “tác động thực tế” của dự án.


    Ví dụ: Dự án của HS là “Gây quỹ ủng hộ cho quỹ khuyến học để giúp đỡ trẻ em nghèo ở Hà Giang có điều kiện học tập tốt hơn", và có những mục tiêu sau:

    • Quyên góp được 10 triệu VND: Đạt
    • Hoàn thành việc quyên góp trong 2 tuần (sớm hơn thời gian CT cho phép): Không đạt, vẫn cần tới 3 tuần (trong thời gian CT cho phép)


    > Từ những dữ liệu trên, HS có thể đưa ra kết luận là: Việc triển khai giải pháp của nhóm mình chưa hiệu quả. Trong trường hợp HS chưa có đủ bằng chứng, và sẽ mất nhiều thời gian để tổng hợp lại, GV có thể làm việc đó giúp HS (từ những ghi chép & hiểu biết của mỗi GV về Dự án của mỗi nhóm).


    Tiếp đó nhóm tự đánh giá tác động thực tế của dự án là: dự án có mang lại tác động tích cực, nhưng chỉ là ngắn hạn (vì số tiền quyên góp được không nhiều, chỉ đủ để quỹ khuyến học của Hà Giang hỗ trợ trẻ em nghèo trong thời gian ngắn). Vấn đề mà HS xác định từ đầu là “điều kiện học tập khó khăn do ảnh hưởng từ tình trạng nghèo” mà trẻ em Hà Giang đang gặp phải vẫn chưa thực sự được giải quyết, và những gì HS làm được chỉ mang tính ngắn hạn. Trong trường hợp nhóm chỉ nói được tác động ngắn hạn của dự án, GV cần đặt thêm câu hỏi về tác động dài hạn của dự án để HS suy nghĩ thêm.


    Tiếp theo, cả nhóm sẽ liệt kê những điểm mạnh & điểm cần cải thiện của nhóm trong quá trình làm Dự án, và rút ra bài học chung cho cả nhóm. Như nhóm chưa thực sự đoàn kết và bài học rút ra là các thành viên cần lắng nghe và chia sẻ quan điểm nhiều hơn. GV cũng cần hỗ trợ bằng cách gợi ý các điểm mạnh/điểm cần cải thiện mà mỗi nhóm chưa nghĩ ra, hoặc gợi ý một số cách cải thiện phù hợp với đặc điểm của mỗi nhóm.


    - Sau khi các nhóm đã hoàn thiện phần Suy ngẫm nhóm, từng HS sẽ bắt đầu thực hiện bài Suy ngẫm cuối năm. Đây cũng là mốc đánh giá cá nhân thứ hai trong năm học của HS. GV cần giúp HS hiểu rõ tuy bài Suy ngẫm cá nhân có nhiều điểm giống với việc suy ngẫm theo nhóm, tuy nhiên ở đây HS cần nói về những trải nghiệm của riêng mình.


    Chẳng hạn, bài Suy ngẫm nhóm yêu cầu các thành viên nói được điểm mạnh và điểm cần cải thiện của nhóm, thì ở trong bài Suy ngẫm cá nhân, từng HS phải nói được điểm mạnh và điểm cần cải thiện của bản thân mình và xác định một số phương án để cải thiện khả năng cộng tác của mình trong tương lai. Cùng một vấn đề là việc trao đổi trong nhóm chưa hiệu quả, từng HS có thể có suy ngẫm khác nhau. Ví dụ HS A cho rằng mình còn nhát và ngại nói nên tự xác định phương án cần phải mạnh dạn trao đổi hơn, còn HS B lại hiểu rằng mình còn mải chơi nên chưa tham gia họp nhóm đều đặn nên tự xác định rằng bản thân phải chăm chỉ tham gia họp nhóm hơn trước.


    Đặc biệt, HS sẽ phải chỉ ra liên hệ giữa dự án nhóm và bài TVCN từ học kỳ 1. HS cần liệt kê những thông tin/kiến thức/bài học cụ thể mà bản thân đã học hỏi được cho TVCN sau khi triển khai Dự án Hành động, như  việc làm đã giúp gì, bổ trợ gì cho việc học của HS.


    Ví dụ: Qua dự án “Gây quỹ ủng hộ cho quỹ khuyến học để giúp đỡ trẻ em nghèo ở Hà Giang có điều kiện học tập tốt hơn", HS muốn trả lời câu hỏi  TVCN là “Nguyên nhân gây ra vấn đề nghèo ở Hà Giang?. Có thể HS đã có một số suy đoán nhưng sau khi thực hiện dự án thì HS sẽ rút ra được bài học cho TVCN của mình như là: việc trẻ em thiếu điều kiện học tập là một trong số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo, và nguyên nhân này rất khó để giải quyết triệt để nếu các bên chỉ tập trung vào đưa ra các giải pháp ngắn hạn như cung cấp đồ dùng học tập/sách vở. Cuối cùng HS sẽ nêu một số vấn đề/khía cạnh mà bản thân muốn tìm hiểu thêm trong tương lai như: trên thế giới đã có giải pháp lâu dài nào giúp phát triển điều kiện học tập ở khu vực nghèo chưa? Nếu có thì giải pháp đó được thực hiện như thế nào? v.v.


    Tuy bài Suy ngẫm cuối năm do HS tự làm, nhưng vì là nội dung tổng kết quá trình một năm học, HS có thể sẽ gặp nhiều khó khăn hoặc quên nhiều chi tiết trong TVCN, vì vậy GV vẫn nên theo dõi sát sao và đưa ra câu hỏi định hướng để HS có thể nhớ lại TVCN của mình (Ví dụ: Em hãy nhắc lại đối tượng và vấn đề trong bài TVCN của mình? Em đã thực hiện tìm kiếm thông tin như thế nào? Em có nhớ bản thân đã tìm được thông tin gì không? Thông tin em tìm được có được kiểm chứng trong quá trình làm dự án không, nếu có thì em đã học được gì? v.v.)


    - Trong 2 tuần cuối cùng của năm học, HS sẽ thực hiện báo cáo dự án nhóm trước lớp. Lúc này, GV sẽ cùng thảo luận với HS để chọn hình thức báo cáo (tại lớp hay sân khấu hóa, v.v.).


    Nhóm HS cần nói được tổng quan dự án, những thay đổi khi triển khai so với kế hoạch và đóng góp nổi bật của mỗi thành viên, kết quả dự án, bài học rút ra và đề xuất kêu gọi hành động để giải quyết vấn đề nghèo. Sau cùng các nhóm sẽ trả lời phần Q&A từ phía người nghe. Tuy HS sẽ là người tự dẫn dắt phần thuyết trình và Q&A, GV vẫn nên dựa vào Hồ sơ dự án của các nhóm để chuẩn bị trước một số câu Q&A cho nhóm trình bày trong trường hợp các HS còn lại trong lớp không thể đưa ra câu hỏi cho nhóm đó.


    Tên tài liệu Link cũ Notes
    5. Trái Đất là một hệ thống, trong đó mọi thứ được kết nối, nhiệt độ có thể ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố khác như lượng mưa và gió ở một vùng, thậm chí những thay đổi trong một khu vực có thể ảnh hưởng đến tất cả những nơi khác. https://www.un.org/en/climatechange/what-is-climate-change#:~:text=Climate%20change%20refers%20to%20long,activity%20or%20large%20volcanic%20eruptions. Trùng với link 4
    9. Xem thêm về minh chứng của biến đổi khí hậu đang tác động nghiêm trọng tới con người khắp nơi trên thế giới tại ĐÂY. Không có link đính kèm
    13. Những diễn biến của BĐKH tại Việt Nam https://quanly.moitruongvadothi.vn/28/14283/Nhung-bieu-hien-cua-bien-doi-khi-hau-o-Viet-Nam.aspx Trùng link 12, nhưng vẫn dùng lại vì nội dung vẫn về VN


    Tên tài liệu Link cũ Notes
    6, Tác động của bất bình đẳng nói chung lên nhiều khía cạnh khác nhau của xã hộia https://equalitytrust.org.uk/about-inequality/impacts Link có nhiều bài viết về một khía cạnh của “impacts” nên không thể download hết
    17, The model minority and the perpetual foreigner: Stereotypes of Asian Americans. https://psycnet.apa.org/record/2008-10239-004 Không cho download cả bài báo


    Tên tài liệu Link cũ Notes
    10, Nhu cầu sử dụng hải sản hoặc sản vật của một địa phương có thể dẫn đến đánh bắt quá mức một số loài, và việc mua quà lưu niệm có thể khuyến khích việc bán các sản phẩm từ động vật hoang dã đang bị đe dọa https://sustainabletravel.org/issues/resource-overconsumption/ Trang chủ
    11, Tính riêng Youtube, trong năm 2022, cứ mỗi phút thì có khoảng 500 giờ video được tải lên, tương đương với tổng thời lượng một năm là khoản https://www.un.org/en/un75/inequality-bridging-divide#:~:text=Inequalities%20are%20not%20only%20driven,persist%2C%20within%20and%20between%20countries. Trùng link với K8_8, vẫn đang dùng tạm
    14, 26 người giàu nhất thế giới nằm giữ khối tài sản bằng tổng tài sản của một nửa dân số toàn cầu https://www.un.org/en/un75/inequality-bridging-divide#:~:text=Inequalities%20are%20not%20only%20driven,persist%2C%20within%20and%20between%20countries. Trùng link với K8_8, vẫn đang dùng tạm
    Tên tài liệu Link cũ Notes
    4, Các nguồn năng lượng không bền vững (hay không thể tái tạo) chỉ bắt đầu trở thành nguồn năng lượng chính từ những năm 1910 https://ourworldindata.org/energy-mix#global-primary-energy-how-has-the-mix-changed-over-centuries Trùng link với K11_1, vẫn tạm thời dùng lại
    9, Những cộng đồng phụ thuộc vào việc khai thác hoặc tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch https://social.desa.un.org/development/desa/dspd/2021/04/indigenous-peoples-sustainability/


    Tên tài liệu Link cũ Notes
    2, Khủng hoảng nước sạch ở Mỹ https://vtv.vn/the-gioi/khung-hoang-nuoc-sach-cuoc-chien-giong-nhu-tim-vang-20220915115652398.htm Trùng với K2_2, vẫn dùng lại
    3, Nguy cơ nghèo đói tại Đức https://www.baohaugiang.com.vn/chuyen-thoi-su/duc-doi-mat-voi-nguy-co-ngheo-doi-115086.html Trùng K6_14,  vẫn dùng lại
    4, Đói nghèo ở trẻ em tại Nhật Bản https://www.theguardian.com/world/2017/jan/17/japans-rising-child-poverty-exposes-truth-behind-two-decades-of-economic-decline Trùng K6_15, vẫn dùng lại
    Video bài diễn thuyết của nhà tâm lý học Barry Schwartz https://www.youtube.com/watch?v=hjACfaEh9BM
    2, Khủng hoảng nước sạch ở Mỹ https://vtv.vn/the-gioi/khung-hoang-nuoc-sach-cuoc-chien-giong-nhu-tim-vang-20220915115652398.htm 2, Khủng hoảng nước sạch ở Mỹ https://vtv.vn/the-gioi/khung-hoang-nuoc-sach-cuoc-chien-giong-nhu-tim-vang-20220915115652398.htm 2, Khủng hoảng nước sạch ở Mỹ https://vtv.vn/the-gioi/khung-hoang-nuoc-sach-cuoc-chien-giong-nhu-tim-vang-20220915115652398.htm
    3, Nguy cơ nghèo đói tại Đức https://www.baohaugiang.com.vn/chuyen-thoi-su/duc-doi-mat-voi-nguy-co-ngheo-doi-115086.html 3, Nguy cơ nghèo đói tại Đức https://www.baohaugiang.com.vn/chuyen-thoi-su/duc-doi-mat-voi-nguy-co-ngheo-doi-115086.html 3, Nguy cơ nghèo đói tại Đức https://www.baohaugiang.com.vn/chuyen-thoi-su/duc-doi-mat-voi-nguy-co-ngheo-doi-115086.html
    4, Đói nghèo ở trẻ em tại Nhật Bản https://www.theguardian.com/world/2017/jan/17/japans-rising-child-poverty-exposes-truth-behind-two-decades-of-economic-decline 4, Đói nghèo ở trẻ em tại Nhật Bản https://www.theguardian.com/world/2017/jan/17/japans-rising-child-poverty-exposes-truth-behind-two-decades-of-economic-decline 4, Đói nghèo ở trẻ em tại Nhật Bản https://www.theguardian.com/world/2017/jan/17/japans-rising-child-poverty-exposes-truth-behind-two-decades-of-economic-decline
    Video bài diễn thuyết của nhà tâm lý học Barry Schwartz https://www.youtube.com/watch?v=hjACfaEh9BM Video bài diễn thuyết của nhà tâm lý học Barry Schwartz https://www.youtube.com/watch?v=hjACfaEh9BM Video bài diễn thuyết của nhà tâm lý học Barry Schwartz https://www.youtube.com/watch?v=hjACfaEh9BM