Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyên tắc xây dựng chương trình”

Từ GCED
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
<p style="margin-left:2%; margin-right:10%;">  </p>
<p style="margin-left:2%; margin-right:10%;">  </p>


[[Tổng quan môn học|Chương trình GCED]] được xây dựng theo những '''nguyên tắc giáo dục đổi mới''' nhất nhằm phục vụ [[Tổng quan môn học#Sứ mệnh môn học|sứ mệnh cải tổ]] của Vinschool. Trên hết, bộ môn GCED (Công dân toàn cầu) hướng tới việc trao cho HS trải nghiệm '''giáo dục lấy HS làm trọng tâm''' - ("SCL", hoặc "student-centered learning") <ref name="SCL" />. Nguyên lý của SCL yêu cầu [[Hướng dẫn Phòng Chương trình|Chương trình]] và [[Hướng dẫn Cán bộ Quản lý cơ sở|Nhà trường]], cũng như [[Hướng dẫn Lãnh đạo Hệ thống|Lãnh đạo Hệ thống]] triển khai những mô hình giáo dục tiên tiến nhất, ví dụ như Học qua Truy vấn, Học qua Hiện tượng và Học qua Phục vụ. 
[[Tổng quan môn học|Chương trình GCED]] được xây dựng theo những '''nguyên tắc giáo dục đổi mới''' nhất nhằm phục vụ [[Tổng quan môn học#Sứ mệnh môn học|sứ mệnh cải tổ]] của Vinschool.  


Nguyên lý SCL giúp học sinh làm chủ kiến thức, có khả năng tự học ngoài khuôn khổ trường học và không phải dựa vào GV quá nhiều. Học sinh có cơ hội tiếp cận với các phương pháp giáo dục quốc tế mới để không chỉ học mà còn nghiên cứu các vấn đề đưa ra trong môn học một các hiệu quả và sâu rộng nhất.
== Nguyên lý giáo dục của GCED ==
Bộ môn GCED hướng tới việc trao cho HS trải nghiệm '''giáo dục lấy HS làm trọng tâm''' - ("SCL", hoặc "student-centered learning") <ref name="SCL" />.


Dưới đây những nguyên lý cấu thành nên tầm nhìn giáo dục lấy HS làm trọng tâm của Chương trình GCED:
Một trong những yếu tố quyết định nên chất lượng triển khai của 1 chương trình học chính là nguyên lý giáo dục. Nguyên lý giáo dục quy định một chương trình nên được triển khai như thế nào để đạt được mục tiêu giáo dục và mang lại trải nghiệm học tốt nhất cho HS.
 
Nguyên lý giáo dục của môn học GCED là SCL - (Student-centered learning) - "Lấy người học làm trọng tâm".
 
Đây chính là kim chỉ nam cho việc Dạy và Học trong môn GCED và cũng là một trong những sứ mệnh chủ đạo của Vinschool nhằm thay đổi cách tiếp cận giáo dục truyền thống.
 
Khác với cách tiếp cận lấy người dạy làm trọng tâm, trong đó trải nghiệm học tập (từ nội dung đến cách thực hiện yêu cầu) đều được quyết định bởi giáo viên, cách tiếp cận SCL tạo cơ hội cho HS đóng vai trò chủ động trong lớp học. Việc trao quyền tự quyết định trong học tập giúp HS trở nên tự chủ và có trách nhiệm với việc học của mình. Đồng thời, HS cũng được khuyến khích để phát triển những kỹ năng như tư duy phản biện, tư duy sáng tạo, phân tích, giao tiếp, hợp tác. Có thể nói, sự thay đổi mô hình giáo dục sang SCL sẽ là yêu cầu tiên quyết để giúp HS đạt được những chuẩn đầu ra về năng lực phù hợp với thế kỷ 21.
 
Mặc dù khái niệm về học tập lấy người học làm trọng tâm vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng và cần tiếp tục được phát triển, một vài đặc điểm của cách tiếp cận này vẫn được các nhà giáo dục và các nhà nghiên cứu chấp nhận. Nghiên cứu của Tổ chức giáo dục Nellie Mae Education Foundation <ref>Student-centered learning https://www.edglossary.org/student-centered-learning/</ref> <ref>The Tenets of Student-Centered Learning https://aurora-institute.org/blog/the-tenets-of-student-centered-learning/</ref> <ref>What are student-centered approaches? https://www.capss.org/educational-transformation/what-are-student-centered-approaches</ref> đã cô đọng lại những đặc điểm này và tổng hợp thành 4 yếu tố chính của một hệ thống giáo dục SCL, cụ thể như sau:
[[Tập tin:SCL.png|nhỏ|511x511px|Các tiêu chuẩn của một hệ thống SCL]]
<br />
 
# '''Giáo dục được cá nhân hóa''': Một hệ giáo dục không thể gọi là lấy HS làm trọng tâm nếu năng lực, sở trường, tính tò mò, và nhu cầu của mỗi cá nhân không đóng vai trò nền móng cho hệ thống giáo dục đó. Những đặc tính của giáo dục được cá nhân hóa bao gồm:
#* Nhà trường xác định năng lực và nhu cầu cá nhân thông qua đánh giá quá trình, với những cân nhắc cho nhu cầu, sở thích và nguyện vọng của mỗi em.
#* Hạn chế các phương thức giáo dục bị động, đặc biệt là mô hình truyền đạt kiến thức có sẵn và kiểm tra dựa trên nội dung giảng dạy.
#* Học sinh có nhiều cơ hội, lựa chọn trong cách thức thực hiện nhiệm vụ hay nội dung học, phù hợp với sở trường và nguyện vọng cá nhân, được triển khai qua các phương thức như Học qua dự án, Học qua giải quyết vấn đề, Học qua truy vấn và Học qua phục vụ.
#* Vai trò của giáo viên thay đổi, từ người đưa ra kiến thức thành người “coach” hoặc “mentor”. Mối quan hệ giữa GV và HS không chỉ là một chiều mà thành một mối quan hệ mang tính cộng tác.
# '''Học tập dựa trên năng lực (competency-based):''' Một hệ giáo dục, với mục tiêu thực sự lấy HS làm trọng tâm, cần phải xây dựng hệ thống hướng dẫn, đánh giá, chấm điểm và báo cáo dựa trên năng lực mà HS thể hiện tương quan với mức tiến bộ được kỳ vọng.
#* Mục tiêu giảng dạy cần tập trung vào việc giúp HS đạt được mức độ thành thạo (“proficiency”) đối với nội dung hay kỹ năng HS được học, không chỉ là hoàn thành nội dung giảng dạy.
#* Hình thức giảng dạy và nhiệm vụ của HS phải đa dạng hơn, giáo viên cần linh hoạt hơn trong việc hỗ trợ HS, để có thể giúp các em đạt được những đầu ra mong đợi.
#* Nhà trường sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh phương pháp sư phạm hoặc cải thiện việc dạy & học, hướng đến việc giúp HS đi đến mục tiêu về năng lực cũng như đồng thời giúp HS nhận thức về quá trình học tập của bản thân.
# '''Học “mọi lúc, mọi nơi”:''' Một môi trường chỉ giới hạn việc học trong những khoảng không gian và thời gian nhất định là một môi trường chú trọng những khía cạnh cơ sở vật chất hơn là sự phát triển của HS. Văn hóa học tập linh hoạt được tạo điều kiện qua các yếu tố sau:
#* Việc học không chỉ xảy ra trong lớp, mà còn có thể xảy ra bên ngoài lớp học, ngoài trường học thậm chí ngoài năm học.
#* Chương trình học cần tạo cơ hội cho HS qua trải nghiệm thực tế và học qua phục vụ để có thể tìm hiểu về những vấn đề ngoài đời, gần gũi với bản thân em và có thể tự mình áp dụng kiến thức thành vào hành động thực tế có ý nghĩa với cộng đồng.
#* Ngoài ra, nhà trường sử dụng công nghệ để cho HS tiếp cận nhiều cơ hội học tập bên ngoài lớp học.
# '''Học sinh được trao quyền để tự chủ:''' Giáo dục lấy HS làm trọng tâm không chỉ nhằm mục đích cung cấp kiến thức cho HS mà còn tạo ra sự hiểu biết lâu dài rằng chính HS đóng một vai trò tích cực và thiết yếu trong việc học của chính mình (và mọi người). Nhà trường cũng cần trao quyền để HS thực hiện được điều đó. Các yếu tố sau đây rất quan trọng trong việc thúc đẩy quyền tự chủ của HS:
#* Hình thức giảng dạy cần tạo nhiều cơ hội cho HS lên tiếng, đưa ra lựa chọn cá nhân, hợp tác, tự suy ngẫm và rút kinh nghiệm về việc học của mình.
#* Ngoài ra, bản thân môi trường học tập nên được xây dựng để tạo ra tính gắn kết giữa cộng đồng HS, HS được tự mình đóng góp ý kiến và ý kiến của HS nên được xem xét một cách nghiêm túc với tư cách là một yếu tố để cải thiện môi trường học tập, không chỉ trong phạm vi lớp học mà còn trên phạm vi toàn trường.


==Học qua truy vấn (Inquiry-based learning)==
==Học qua truy vấn (Inquiry-based learning)==

Phiên bản lúc 09:55, ngày 20 tháng 7 năm 2020

Chương trình GCED được xây dựng theo những nguyên tắc giáo dục đổi mới nhất nhằm phục vụ sứ mệnh cải tổ của Vinschool.

Nguyên lý giáo dục của GCED

Bộ môn GCED hướng tới việc trao cho HS trải nghiệm giáo dục lấy HS làm trọng tâm - ("SCL", hoặc "student-centered learning") [1].

Một trong những yếu tố quyết định nên chất lượng triển khai của 1 chương trình học chính là nguyên lý giáo dục. Nguyên lý giáo dục quy định một chương trình nên được triển khai như thế nào để đạt được mục tiêu giáo dục và mang lại trải nghiệm học tốt nhất cho HS.

Nguyên lý giáo dục của môn học GCED là SCL - (Student-centered learning) - "Lấy người học làm trọng tâm".

Đây chính là kim chỉ nam cho việc Dạy và Học trong môn GCED và cũng là một trong những sứ mệnh chủ đạo của Vinschool nhằm thay đổi cách tiếp cận giáo dục truyền thống.

Khác với cách tiếp cận lấy người dạy làm trọng tâm, trong đó trải nghiệm học tập (từ nội dung đến cách thực hiện yêu cầu) đều được quyết định bởi giáo viên, cách tiếp cận SCL tạo cơ hội cho HS đóng vai trò chủ động trong lớp học. Việc trao quyền tự quyết định trong học tập giúp HS trở nên tự chủ và có trách nhiệm với việc học của mình. Đồng thời, HS cũng được khuyến khích để phát triển những kỹ năng như tư duy phản biện, tư duy sáng tạo, phân tích, giao tiếp, hợp tác. Có thể nói, sự thay đổi mô hình giáo dục sang SCL sẽ là yêu cầu tiên quyết để giúp HS đạt được những chuẩn đầu ra về năng lực phù hợp với thế kỷ 21.

Mặc dù khái niệm về học tập lấy người học làm trọng tâm vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng và cần tiếp tục được phát triển, một vài đặc điểm của cách tiếp cận này vẫn được các nhà giáo dục và các nhà nghiên cứu chấp nhận. Nghiên cứu của Tổ chức giáo dục Nellie Mae Education Foundation [2] [3] [4] đã cô đọng lại những đặc điểm này và tổng hợp thành 4 yếu tố chính của một hệ thống giáo dục SCL, cụ thể như sau:

Các tiêu chuẩn của một hệ thống SCL


  1. Giáo dục được cá nhân hóa: Một hệ giáo dục không thể gọi là lấy HS làm trọng tâm nếu năng lực, sở trường, tính tò mò, và nhu cầu của mỗi cá nhân không đóng vai trò nền móng cho hệ thống giáo dục đó. Những đặc tính của giáo dục được cá nhân hóa bao gồm:
    • Nhà trường xác định năng lực và nhu cầu cá nhân thông qua đánh giá quá trình, với những cân nhắc cho nhu cầu, sở thích và nguyện vọng của mỗi em.
    • Hạn chế các phương thức giáo dục bị động, đặc biệt là mô hình truyền đạt kiến thức có sẵn và kiểm tra dựa trên nội dung giảng dạy.
    • Học sinh có nhiều cơ hội, lựa chọn trong cách thức thực hiện nhiệm vụ hay nội dung học, phù hợp với sở trường và nguyện vọng cá nhân, được triển khai qua các phương thức như Học qua dự án, Học qua giải quyết vấn đề, Học qua truy vấn và Học qua phục vụ.
    • Vai trò của giáo viên thay đổi, từ người đưa ra kiến thức thành người “coach” hoặc “mentor”. Mối quan hệ giữa GV và HS không chỉ là một chiều mà thành một mối quan hệ mang tính cộng tác.
  2. Học tập dựa trên năng lực (competency-based): Một hệ giáo dục, với mục tiêu thực sự lấy HS làm trọng tâm, cần phải xây dựng hệ thống hướng dẫn, đánh giá, chấm điểm và báo cáo dựa trên năng lực mà HS thể hiện tương quan với mức tiến bộ được kỳ vọng.
    • Mục tiêu giảng dạy cần tập trung vào việc giúp HS đạt được mức độ thành thạo (“proficiency”) đối với nội dung hay kỹ năng HS được học, không chỉ là hoàn thành nội dung giảng dạy.
    • Hình thức giảng dạy và nhiệm vụ của HS phải đa dạng hơn, giáo viên cần linh hoạt hơn trong việc hỗ trợ HS, để có thể giúp các em đạt được những đầu ra mong đợi.
    • Nhà trường sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh phương pháp sư phạm hoặc cải thiện việc dạy & học, hướng đến việc giúp HS đi đến mục tiêu về năng lực cũng như đồng thời giúp HS nhận thức về quá trình học tập của bản thân.
  3. Học “mọi lúc, mọi nơi”: Một môi trường chỉ giới hạn việc học trong những khoảng không gian và thời gian nhất định là một môi trường chú trọng những khía cạnh cơ sở vật chất hơn là sự phát triển của HS. Văn hóa học tập linh hoạt được tạo điều kiện qua các yếu tố sau:
    • Việc học không chỉ xảy ra trong lớp, mà còn có thể xảy ra bên ngoài lớp học, ngoài trường học thậm chí ngoài năm học.
    • Chương trình học cần tạo cơ hội cho HS qua trải nghiệm thực tế và học qua phục vụ để có thể tìm hiểu về những vấn đề ngoài đời, gần gũi với bản thân em và có thể tự mình áp dụng kiến thức thành vào hành động thực tế có ý nghĩa với cộng đồng.
    • Ngoài ra, nhà trường sử dụng công nghệ để cho HS tiếp cận nhiều cơ hội học tập bên ngoài lớp học.
  4. Học sinh được trao quyền để tự chủ: Giáo dục lấy HS làm trọng tâm không chỉ nhằm mục đích cung cấp kiến thức cho HS mà còn tạo ra sự hiểu biết lâu dài rằng chính HS đóng một vai trò tích cực và thiết yếu trong việc học của chính mình (và mọi người). Nhà trường cũng cần trao quyền để HS thực hiện được điều đó. Các yếu tố sau đây rất quan trọng trong việc thúc đẩy quyền tự chủ của HS:
    • Hình thức giảng dạy cần tạo nhiều cơ hội cho HS lên tiếng, đưa ra lựa chọn cá nhân, hợp tác, tự suy ngẫm và rút kinh nghiệm về việc học của mình.
    • Ngoài ra, bản thân môi trường học tập nên được xây dựng để tạo ra tính gắn kết giữa cộng đồng HS, HS được tự mình đóng góp ý kiến và ý kiến của HS nên được xem xét một cách nghiêm túc với tư cách là một yếu tố để cải thiện môi trường học tập, không chỉ trong phạm vi lớp học mà còn trên phạm vi toàn trường.

Học qua truy vấn (Inquiry-based learning)

📙 Bài chi tiết: Học qua truy vấn

Học qua truy vấn là hình thức học tập chủ động, hướng tới việc người học tự đặt ra câu hỏi và tự tìm ra được câu trả lời bằng chính phương pháp của mình. Vai trò của người dạy sẽ là dẫn dắt và hỗ trợ, nhưng chỉ khi thực sự cần thiết.

Phương pháp này giúp học sinh sẽ nhớ và hiểu kiến thức này sâu hơn, phát triển khả năng học độc lập vì đã tự trải qua quá trình giải quyết vấn đề dựa trên tình huống thực tế.


Học qua hiện tượng (Phenomenon-based learning)

Khám phá chủ đề trọng tâm qua 5 lăng kính

📙 Bài chi tiết: Học qua hiện tượng

Khác với phương pháp học truyền thống là học theo list chủ đề mà chuyên gia nghĩ là quan trọng và học sinh học theo từng môn riêng biệt thì Học qua hiện tượng cho phép học sinh nghiên cứu một hiện tượng (ví dụ như một chủ đề, vấn đề, sự kiện, khái niệm) dưới nhiều Lăng kính (nhiều góc nhìn, nhiều chuyên môn và nhiều cách tiếp cận khác nhau) để có một cái nhìn toàn diện, sâu rộng hơn về hiện tượng đó.

Trong môn GCED, mỗi cấp lớp sẽ có một Chủ đề trọng tâm (ví dụ: biến đổi khí hậu, sức khỏe & an sinh, v.v.) mang tính toàn cầu. Ở học kỳ 1, chủ đề này sẽ được nhìn nhận qua 5 “Lăng kính" mà một Công dân Toàn cầu cần nắm được.


Học qua Phục vụ (Service Learning)

Mô hình học qua phục vụ

📙 Bài chi tiết: Học qua phục vụ

Học qua phục vụ là một phương pháp giảng dạy kết hợp giữa học thuật truyền thống, thực hành trong ngữ cảnh thực tế, và suy ngẫm. Trong đó, học sinh sẽ được tìm hiểu về các vấn đề mà cộng đồng đang đối mặt, từ đó học sinh đưa ra các giải pháp và có những hành động thiết thực để giải quyết những vấn đề này. Đồng thời, thông qua quá trình suy ngẫm về trải nghiệm của mình, học sinh cũng cơ hội để hiểu sâu và đa chiều hơn về những lĩnh vực em nghiên cứu.

Học qua phục vụ trong GCED đươc thể hiện qua việc từ kiến thức đã học học sinh được trải nghiệm thực tế, xây dựng dự án nhằm mục đích phục vụ cộng đồng địa phương nơi đang sinh thống thông qua Dự án hành động trong học kỳ II của mỗi năm học.


Vòng tròn Thiết kế (Design Cycle)

🔎 Xem thêm: Áp dụng Vòng tròn Thiết kế để hiểu thêm về cách áp dụng Vòng tròn Thiết kế và Design MYP trong môn GCED

Nhằm giúp học sinh có khả năng tạo ra giải pháp có ý nghĩa, cân nhắc kỹ lưỡng tới những vấn đề toàn cầu, GCED tham khảo bộ môn Thiết kế (Design) từ Chương trình MYP (Middle Years Programme)[5], thuộc Chương trình Tú tài Quốc tế (IB). Cốt lõi của Chương trình MYP Design là công cụ “Vòng tròn Thiết kế”, hoặc còn gọi là “Design Cycle”.

Vòng tròn Thiết kế là một quá trình rõ ràng, có tính hệ thống, cho phép người sử dụng phát triển ý tưởng của mình một cách bài bản, thiết thực, có cân nhắc cẩn thận tới yêu cầu thực tế và bối cảnh của những giải pháp khác với tính liên kết cao.

Vòng tròn Thiết kế được sử dụng trong môn GCED nhằm tạo ra các giải pháp cho các vấn đề toàn cầu, phục vụ nhu cầu thiết thực của mọi người.

Mặc dù trong Chương trình MYP, Vòng tròn Thiết kế được dùng để hướng học sinh đến những phát minh, sáng chế (vật chất & phần mềm) để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, những nguyên lý của MYP Design và Vòng tròn đều có thể được dùng để phát triển những giải pháp mang tính xã hội.


Lưu ý :
  • Trong GCED, học sinh Tiểu học không học trực tiếp Vòng tròn Thiết kế.
  • Thay vào đó, các con sẽ được tiếp cận với những giá trị, thái độ và kỹ năng cần thiết cho việc tiếp thu Vòng tròn Thiết kế hiệu quả về sau.
  • Trong GCED, MYP Design được áp dụng để:

    1. Xây dựng Ma trận chuẩn đầu ra cho Lăng kính 4, Chuẩn bị Truy vấn, Định hướng và Cấu phần Hành động của GCED nhằm đảm bảo tiến trình kiến thức, kỹ năng đều tuân thủ theo chủ ý của MYP Design;
    2. Định hướng nội dung chính và cách giảng dạy cho các giai đoạn/cấu phần của khóa học nhằm giúp học sinh phát triển ý tưởng một cách độc lập nhưng bài bản;
    3. Định hướng vai trò cho học sinh và giáo viên trong lớp học nhằm mang lại trải nghiệm dạy và học đạt tầm quốc tế.

    Đánh giá nhằm phục vụ học tập (Assessment for Learning)

    Trong GCED, mục tiêu của đánh giá là rút gọn khoảng cách giữa hiện trạng và mục tiêu

    📙 Bài chi tiết: Đánh giá nhằm phục vụ học tập

    🔎 Xem thêm: Đánh giá học tập để biết thêm về quy trình đánh giá học sinh của môn GCED

    🔎 Xem thêm: Kế hoạch hóa Đánh giá quá trình để hiểu rõ hơn những quy tắc này có ý nghĩa gì đối với một giáo viên GCED

    🔎 Xem thêm: Hướng dẫn Đánh giá Quá trình nếu cần hướng dẫn sâu hơn

    Đánh giá nhằm phục vụ học tập là quá trình thu thập và phân tích bằng chứng học tập của người học để xác định thành quả học tập & định hướng cho việc dạy và học. Từ đó, người học có thể nâng cao tính chủ động trong học tập, có đủ khả năng và kiến thức để hướng tới việc học tập trọn đời.

    Trong GCED, mục tiêu của đánh giá là rút gọn khoảng cách giữa hiện trạng và mục tiêu.

    Bằng chứng học tập (Evidence of Learning)

    📙 Bài chi tiết: Bằng chứng học tập

    Môn GCED được xây dựng để đề cao tính sáng tạo trong việc dạy & học. Để giáo viên, BGH, cũng như PHHS có thể theo dõi và đảm bảo sự phát triển cá nhân của từng học sinh, Chương trình yêu cầu giáo viên & học sinh phải tạo ra và lưu trữ bằng chứng học tập rõ nét, bám chặt vào mục tiêu học tập, dễ dàng lưu trữ, theo dõi và đánh giá.

    Bằng chứng học tập không chỉ được sử dụng trong việc dạy và học mà còn là bằng chứng để Ban Giám hiệu quản lý chất lượng môn học.

    Nguồn tham khảo

    1. The Glossary of Education Reform (2014), Student Center Learning.
    2. Student-centered learning https://www.edglossary.org/student-centered-learning/
    3. The Tenets of Student-Centered Learning https://aurora-institute.org/blog/the-tenets-of-student-centered-learning/
    4. What are student-centered approaches? https://www.capss.org/educational-transformation/what-are-student-centered-approaches
    5. International Baccalaureate Organization, Middle Year Program.