Hướng dẫn Cán bộ Quản lý cơ sở

Từ GCED
Phiên bản vào lúc 05:34, ngày 4 tháng 11 năm 2019 của Vinschool admin (thảo luận | đóng góp)

Để triển khai Chương trình GCED (hoặc bất kỳ một chương trình nào), sự tham gia tích cực và sát sao của đội ngũ Cán bộ Quản lý Cơ sở (từ đây gọi tắt là “CBQL”) là điều không thể thiếu.

Chương trình GCED yêu cầu các CBQL nắm rõ yêu cầu của Chương trình cho GV và HS để từ đó kế hoạch hóa quá trình triển khai để không bao giờ rơi vào thế bị động, “làm đâu tính tới đó”.

Trong suốt quá trình trên, đội ngũ Quản lý chịu trách nhiệm hoàn toàn cho phương thức cũng như chất lượng triển khai dạy và học GCED, đảm bảo học sinh phát triển đúng lộ trình được đặt ra và giáo viên luôn nhận được sự hỗ trợ & định hướng.

“CBQL” trong ngữ cảnh của văn bản này bao gồm:

  • Ban Giám hiệu: Hiệu trưởng hoặc Hiệu phó đảm nhiệm môn GCED tại cơ sở; đóng vai trò định hướng và đầu mối cộng tác với Phòng Chương trình. Ban Giám có trách nhiệm đánh giá giáo viên; tuy nhiên, việc này có thể chia bớt cho Điều phối cấp Cơ sở hoặc Phòng Chương trình.
  • Điều phối cấp Cơ sở: Được hiểu như Tổ trưởng Chuyên môn của cơ sở cho môn GCED; làm việc trực tiếp dưới Ban Giám hiệu.

CBQL có trách nhiệm giải trình cho Lãnh đạo Hệ thống.

Tổ chức hoạt động chuyên môn

Sức mạnh tập thể luôn tốt hơn những nỗ lực đơn lẻ. Và Chương trình GCED vốn không được thiết kế cho một cá nhân nghiên cứu mà phải được “giải nghĩa” bởi những nỗ lực có tổ chức.

Do đó, một trong những trách nhiệm của CBQL là tổ chức và theo sát các hoạt động chuyên môn nhằm đảm bảo GV hiểu lý thuyết để có thể giải thích lại cho đồng nghiệp và PHHS, nắm vững những khái niệm sẽ dạy, và luôn làm chủ tiến trình học tập của học sinh (thay vì dạy đến đâu “vỡ lòng” đến đó).

Các hoạt động chuyên môn có thể bao gồm (nhưng không nhất thiết chỉ có):

1. Chuẩn bị cho việc giảng dạy:

  • Tổ chức demo;
  • Chỉnh sửa và kiểm duyệt giáo án hoàn chỉnh.

2. Đào tạo tập trung qua workshop (có thể dựa trên chuyên đề về kỹ năng giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy, hoặc chia sẻ hiểu biết về các khái niệm quan trọng nhưng khó hiểu)

GV GCED vốn có rất nhiều nhiệm vụ, và để GV có thể hoàn thành những nhiệm vụ này một cách hiệu quả nhất có thể, CBQL có trách nhiệm:

  1. Kế hoạch hóa và giám sát quá trình triển khai những nhiệm vụ này:
    • Đảm bảo độ “SMART” của những kế hoạch này.
    • Đảm bảo mục đích/ đầu ra đã được định hình rõ ràng từ trước để công việc luôn có giá trị cho giáo dục, không chỉ là “việc nặng” vô nghĩa.
  2. Nắm rõ nhu cầu đào tạo của Tổ GCED của cơ sở để từ đó có thể tổ chức đào tạo nội bộ một cách sát thực nhất có thể.

Tập tin:Notice.png

Lưu ý :
  • “Đào tạo” không phải khi nào cũng nhất thiết phải có lớp do chuyên gia đứng. Những lỗ hổng trong kỹ năng và kiến thức đều có thể được bổ sung qua các hoạt động chuyên môn.

Quản lý tiến trình triển khai

📙 Bài chi tiết: Quản lý tiến trình triển khai

Khi triển khai Chương trình GCED, đội ngũ CBQL sẽ chịu trách nhiệm cho sự thành công của Chương trình tại cơ sở của mình. Để thực hiện hóa được việc này, CBQL sẽ đóng vai trò lãnh đạo, đồng hành trong chuyên môn lẫn vận hành cho tổ GCED của cơ sở. Trách nhiệm này bao gồm những nhóm việc sau:

Luôn có cơ sở kế hoạch


1.Hệ thống hóa việc theo dõi Nhật ký Học tập (Learning Journey Journal - LJJ): Nhật ký Hành trình Học tập (Learning Journey Journal - “LJJ”) của học sinh là nơi lưu trữ chính của những bằng chứng học tập xuyên suốt năm học. Nếu không được theo sát, sẽ có rất nhiều lớp/ HS không thực hiện LJJ đúng tinh thần và kết quả là công việc trở nên vô giá trị. Vì vậy, CBQL có trách nhiệm kiểm tra định kỳ việc triển khai & theo dõi Nhật ký học tập của GV trong lớp của mình, giúp cho việc Đánh giá Quá trình được thực hiện một cách đồng đều (nhưng vẫn có đủ tự do cho GV triển khai theo sở trường).

2. Giúp GV lên kế hoạch Đánh giá Quá trình: GV GCED được yêu cầu thực hiện Đánh giá Quá trình, thu thập bằng chứng học tập và cải thiện dạy & học dựa trên thông tin này. Dù Chương trình có rất nhiều hỗ trợ cho GV về mặt lý thuyết, những lý thuyết này cần được kế hoạch hóa và kiểm soát bởi CBQL thì mới có thể trở thành giá trị thực tế cho dạy & học được.

  • Đầu tiên, CBQL phải nắm rõ lý thuyết của nhiệm vụ này và phải đảm bảo lý thuyết và tinh thần này được lan tỏa trong tổ GCED.
  • CBQL sẽ giúp GV sẽ phải lên kế hoạch thực hiện Đánh giá Quá trình và quyết định phương thức theo dõi và lưu trữ bằng chứng học tập. Đồng thời, CBQL sẽ hỗ trợ GV cải thiện dạy và học dựa trên bằng chứng đã thu thập được. Công việc này có thể được thực hiện trong các buổi hoạt động chuyên môn.

3. Hệ thống hóa Nhật ký Giảng dạy (optional): Chương trình GCED yêu cầu HS suy ngẫm về quá trình học của mình và điều chỉnh thường xuyên - GV cũng không phải là ngoại lệ. Để giúp GV GCED phát triển chuyên môn một cách hiệu quả, từng bước đạt được chuẩn mực quốc tế trong dạy và học, CBQL có thể yêu cầu GV tạo ra Nhật ký Giảng dạy của riêng mình. Nếu Nhà trường áp dụng hình thức này, sau đây là các yêu cầu đối với Nhật ký Giảng dạy:

  • Có tính hệ thống, kế hoạch, dựa vào dữ liệu và bằng chứng.
  • Dùng thường xuyên, lưu trữ tài liệu feedback từ đồng nghiệp và CBQL đầy đủ;
  • Có suy ngẫm, đúc kết, rút kinh nghiệm;
  • Nêu ra được lộ trình phát triển cá nhân dựa trên feedback và suy ngẫm;
  • GV có khả năng chỉ vào Nhật ký Giảng dạy của mình và trình bày cho đồng nghiệp, BGH, PCT về quá trình học tập của họ.

Coaching & đào tạo cho GV


4. Dự giờ & góp ý: Mục đích chính của dự giờ góp ý (hoặc dự giờ phản hồi) là góp ý, giúp GV cải thiện hoặc thay đổi phương pháp dạy, cách tiếp cận của mình trong lớp học. Dự giờ không những giúp cho CBQL nắm rõ chất lượng dạy & học thực tế mà còn là cơ hội coaching cho GV sát thực nhất và cá nhân nhất. Dự giờ góp ý KHÔNG ảnh hưởng đến đánh giá xếp hạng của GV. Có nhiều hình thức dự giờ phản hồi, tùy vào mục đích của người CBQL, và mỗi buổi dự giờ luôn là một tổng hợp của cả 2 hình thức:

  • Tập trung vào nội dung giảng dạy: Đánh giá giáo án, tài liệu, nội dung được triển khai thực tế trên lớp, quan sát phản ứng của HS (Có thú vị? Có khó quá? Có dễ quá? v.v.). Dù mỗi GV có sự tự do để thiết kế tài liệu và giáo án riêng, việc dự những giờ này vẫn có thể là bài học quý giá cho cả tổ GCED.
  • Tập trung vào kỹ năng giảng dạy: Quan sát giảng dạy dựa trên các tiêu chí của COT (không lấy điểm) để có thể coach GV thông qua quá trình suy ngẫm, nhận xét, chốt và cam kết chỉnh sửa, giúp cho GV phát triển kỹ năng, sẵn sàng hơn cho dự giờ đánh giá.

5. Theo dõi nhu cầu và cung cấp đào tạo nội bộ: Đào tạo, phát triển chuyên môn là việc dĩ nhiên phải thực hiện, tuy nhiên để tối đa hóa hiệu quả và để GV thấy rõ được giá trị của đào tạo, những chương trình này phải sát với nhu cầu của GV. CBQL có trách nhiệm theo dõi và đánh giá chuyên môn của tổ GCED thường xuyên để có thể biết được đâu là “lỗ hổng kiến thức/ kỹ năng”. Dựa trên đấy, CBQL sẽ định hướng việc đào tạo sao cho thích hợp nhất. (Quy trình này tương tự như Đánh giá Quá trình mà GV phải thực hiện).

  • Một cách nâng cao năng lực chuyên môn thông thường nhưng rất hiệu quả là qua các hoạt động chuyên môn.
  • Gợi ý một số hình thức khác: dự giờ & phản hồi cho đồng nghiệp, các khóa eLearning, 1:1 coaching, hệ thống buddy/ mentor, training “chéo” với các tổ GCED khác, v.v.

Giúp GV và HS luôn trong “tư thế sẵn sàng”

6. Liên tục cập nhật Cẩm nang GCED để triển khai công việc: Với tư cách người quản lý và triển khai bộ môn GCED, CBQL cần thường xuyên đọc và cập nhật Cẩm nang GCED để nắm rõ định hướng công việc. PCT có thể cố vấn và gợi ý cho CBQL về những công việc liên quan tới GCED, nhưng không thể thay thế được việc đọc và thực hiện những hướng dẫn trong Cẩm nang GCED của CBQL.

7. Lan tỏa những nội dung quan trọng để quản lý & triển khai chương trình: Sau khi đã nắm chắc nội dung & định hướng trong Cẩm nang GCED, cũng như tham gia những buổi đào tạo chuyên môn của PCT, CBQL sẽ có trách nhiệm đảm bảo giáo viên nắm rõ những nội dung sau:

  • Đào tạo định hướng, lý thuyết của GCED.
  • Đào tạo cách tổ chức hoạt động chuyên môn & định hướng trọng tâm của những hoạt động đó.
  • Đào tạo cách sử dụng hiệu quả những nội dung cần thiết (bao gồm Khung chương trình, cách sử dụng Thư viện Tài nguyên để ghép hoạt động vào giáo án, v.v.)

8. Bảo đảm GV có khả năng truyền thông về nội dung, định hướng học của GCED: CBQL cần chủ động tuyên truyền, yêu cầu GV đọc Cẩm nang GCED để hoàn toàn hiểu những nội dung và định hướng học tập & giảng dạy của bộ môn này để có thể tự tin truyền thông cho PHHS hoặc GV khác.

9. Bảo đảm tất cả GV và HS đã chuẩn bị sẵn sàng cho những bước quan trọng bằng các hoạt động mang tính kế hoạch: Để đảm bảo GV và HS luôn trong tư thế sẵn sàng cho các thử thách của GCED, CBQL sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc triển khai những cột mốc/ giai đoạn quan trọng của môn GCED. Những mục này bao gồm:

CBQL sẽ làm việc với PCT để nắm rõ định hướng, đặc tính công việc, mục tiêu và trách nhiệm của các bên. Từ đó, Nhà trường sẽ xây dựng kế hoạch triển khai của mình, đồng thời đề ra phương án kiểm soát công việc & theo dõi tiến độ triển khai của Giáo viên trong những giai đoạn quan trọng đó. PCT đóng vai trò cố vấn trong quá trình này, nhưng sẽ không có quyền hay trách nhiệm phê duyệt; toàn bộ những đầu việc ở trên sẽ do CBQL chỉ đạo và thực hiện.


Kiểm soát chất lượng, đánh giá và báo cáo

📙 Bài chi tiết: Kiểm soát chất lượng, đánh giá và báo cáo

Như đã nêu ở trên, CBQL chịu trách nhiệm chính cho chất lượng triển khai GCED tại cơ sở. Điều này có nghĩa CBQL phải đóng vai trò kiểm chứng và phê duyệt công tác giáo dục của tổ GCED, đánh giá GV (để góp ý hay xếp hạng) và báo cáo thường xuyên. Trong quá trình này, PCT sẽ đóng vai trò cố vấn chuyên môn cho CBQL.

Nguyên tắc báo cáo/ phối hợp:

Vì PCT là cố vấn chuyên môn, PCT sẽ không có khả năng xử lý thông tin mang tính vận hành hay số liệu tủn mủn.

VD: Số tiết đã dạy; số buổi họp chuyên môn; từng chi tiết của thảo luận trong tổ GCED; số GV thêm/bớt; v.v.

Do đó, các CBQL nên chú ý rằng báo cáo phải mang tính đánh giá và định hướng. PCT sẽ thảo luận về những vấn đề mang tính chất chuyên môn, đúng trọng tâm của Chương trình, giúp làm rõ định hướng và kế hoạch hành động của cơ sở.

VD: Tổng kết và suy ngẫm về số liệu Đánh giá Quá trình sau 1-2 tháng triển khai; thực trạng năng lực GV và cách hỗ trợ; nhu cầu đào tạo, v.v.<div

Quản lý nội dung giảng dạy

1. Phê duyệt mảnh ghép & giáo án của GV: Dù Thư viện Tài nguyên đã gợi ý sẵn hoạt động cho toàn bộ các tiết học của môn GCED, sẽ có những trường hợp mà chúng chưa phù hợp với điều kiện thực tế của lớp GV dạy, hoặc GV có cách tiếp cận khác tối ưu hơn. Trong trường hợp đó, GV có thể tự tạo ra các mảnh ghép hoạt động, và CBQL sẽ có trách nhiệm rà soát độ phù hợp (dựa trên định hướng của Khung Chương trình), sau đó phê duyệt về việc sử dụng các mảnh ghép hoạt động này trong giáo án dạy chính thức của GV.

Bên cạnh đó, dù GV có sử dụng mảnh ghép hoạt động trong Thư viện Tài nguyên hay tự thiết kế hoạt động, giáo án cuối cùng của GV vẫn phải nhận được sự phê duyệt của CBQL trước khi đưa vào dạy trong lớp học.

2. Bảo đảm đạt được yêu cầu & mong đợi của Chương trình: CBQL phải kiểm soát giảng dạy GCED và hướng đến việc đạt những đầu ra của khối trong Ma trận Chuẩn đầu ra GCED. Cẩm nang GCED có các phần cụ thể liên quan đến Ma trận như Đánh giá theo chuẩn đầu raNhiệm vụ Phát triển kỹ năng HS. CBQL có thể tổ chức dự giờ hoặc rà soát qua hoạt động chuyên môn để nắm được chất lượng dạy & học GCED, sau đó đưa ra những biện pháp phù hợp để bảo đảm GV có kế hoạch giảng dạy mà có thể thỏa mãn những yêu cầu này.

Kiểm soát chất lượng qua bằng chứng học tập (của HS và GV):


3. Kiểm soát & theo dõi bằng chứng học tập, LJJ và Đánh giá Quá trình: Nhật ký Hành trình Học tập (“LJJ”) của học sinh là nơi lưu trữ chính của những bằng chứng học tập xuyên suốt năm học. Bằng chứng này được sử dụng để đánh giá và cải thiện dạy & học. CBQL có trách nhiệm rà soát và đảm bảo mỗi GV đều có kế hoạch nét để thu thập, giải nghĩa, và sử dụng các bằng chứng này một cách hiệu quả.

  • CBQL đảm bảo GV ít nhất có kế hoạch Đánh giá Quá trình và hiểu rằng mình sẽ thu thập bằng chứng học tập như thế nào.
  • CBQL yêu cầu GV báo cáo tình hình LJJ và học tập của các lớp thường xuyên.
  • CBQL đảm bảo GV giải nghĩa được bằng chứng học tập và hành động dựa trên ý nghĩa của bằng chứng (VD: lớp ABC luôn nộp những bài suy ngẫm vượt trội. Điều này cho thấy gì về HS lớp này? Liệu có nên thay đổi phương pháp dạy để thử thách các con hơn? Thực hiện như thế nào?)

4. Đánh giá nhật ký giảng dạy của GV (tùy chọn): Để giúp GV GCED phát triển chuyên môn một cách hiệu quả, từng bước đạt được chuẩn mực quốc tế trong dạy và học, CBQL có thể yêu cầu GV tạo ra Nhật ký Giảng dạy của riêng mình. Nếu Nhà trường áp dụng hình thức này, sau đây là các yêu cầu đối với Nhật ký Giảng dạy:

  • Có tính hệ thống, kế hoạch, dựa vào dữ liệu và bằng chứng.
  • Dùng thường xuyên, lưu trữ tài liệu feedback từ đồng nghiệp và CBQL đầy đủ;
  • Có suy ngẫm, đúc kết, rút kinh nghiệm;
  • Nêu ra được lộ trình phát triển cá nhân dựa trên feedback và suy ngẫm;
  • GV có khả năng chỉ vào Nhật ký Giảng dạy của mình và trình bày cho đồng nghiệp, BGH, PCT về quá trình học tập của họ.

Đánh giá chuyên môn


5. Thực hiện đánh giá GV: CBQL sẽ sử dụng công cụ COT để đánh giá GV một cách sát thực và nghiêm ngặt qua các buổi dự giờ đánh giá (formal observation, khác với dự giờ phản hồi). Ban Giám hiệu sẽ được PCT cố vấn trong quá trình đánh giá để có thể tự triển khai công việc này một cách độc lập.

6. Đánh giá Tổ trưởng Chuyên môn/ Điều phối Cơ sở (50%): CBQL sẽ cùng PCT đánh giá TTCM và ĐPCS vào cuối mỗi học kỳ. Đánh giá của Ban Giám hiệu sẽ chiếm 50% tỷ trọng, PCT chiếm 50% còn lại. Tuy nhiên, vì đây là nhân sự của cơ sở, Ban Giám hiệu sẽ là bên chủ động đề xuất đánh giá để đảm bảo có điểm đánh giá kịp thời và sẽ là bên điều phối thông tin giữa các phòng ban liên quan.

7. Đề xuất KPI cho cơ sở: CBQL sẽ đề xuất KPI cho mỗi học kỳ, PCT sẽ là người cố vấn và đưa ra đề xuất để QLCS sửa đổi cho phù hợp với điều kiện triển khai thực tế.

8. Báo cáo về tình hình dạy & học GCED để đưa ra sự điều chỉnh hợp lý về cách tiếp cận quản lý: CBQL có trách nhiệm cung cấp số liệu về kết quả học tập & tình hình dạy học của môn GCED cho PCT (và CEO). Tuy nhiên, những số liệu hay thông tin trong báo cáo này không nên mang ý nghĩa thông báo, mà nên hướng tới việc đề xuất cải thiện/chỉnh sửa để PCT có thể rà soát và cố vấn cho QLCS một cách phù hợp và chính xác nhất. Lại một lần nữa, xin lưu ý:

  • Vì PCT là cố vấn chuyên môn, đó có nghĩa PCT sẽ không có khả năng xử lý thông tin mang tính vận hành hay số liệu tủn mủn.
  • Do đó, các CBQL nên chú ý rằng báo cáo phải mang tính đánh giá và định hướng. PCT sẽ thảo luận về những vấn đề mang tính chất chuyên môn, đúng trọng tâm của Chương trình, giúp làm rõ định hướng và kế hoạch hành động của cơ sở.

GCED COT

E3a. Tổ chức hoạt động chuyên môn

E3b. Quản lý tiến trình triển khai

E3c. Kiểm soát chất lượng, đánh giá và báo cáo

E3d. GCED COT